Bộ 21 câu hỏi đề cương hành chính nhà nước- ôn thi công chức thuế

Bộ 21 câu hỏi đề cương hành chính nhà nước- ôn thi công chức thuế Trắc nghiệm Kiến thức chung thi công chức 2020, Câu hỏi thi công chức vòng 2, De thi nâng ngạch chuyên viên môn kiến thức chung, De thi công chức môn chuyên ngành, Lớp ôn thi công chức, Thi công chức kế toán 2020, Thi công chức kế toán 2021, Đề thi công chức vòng 2, Lớp on thi công chức Thuế 2021, Review làm công chức thuế, De thi công chức thuế 2019, Các môn thi công chức thuế, Lớp ôn thi công chức thuế 2020 thầy Trường, Kiến thức chung thi công chức thuế, On thi công chức thuế 2021, Lịch thi công chức thuế 2022 :

Nội dung chính:

Bộ 21 câu hỏi đề cương hành chính nhà nước- ôn thi công chức thuế

Câu1.Sự cần thiết khách quan quản lý nhà nước về kinh tế tài chính
Câu 3. Khái niệm quản lý hành chính nhà nước về kinh tế tài chính
Câu 4. Hình thức quản lý HCNN về KTTC
Câu 5. Phương pháp quản lý HCNN về KTTC
Câu 6.Công cụ quản lý KTTC ( có thể đề thi chỉ yêu cầu trình bày một nhóm công cụ)
Câu 7.Mục tiêu quản lý HCNN về KTTC
Câu 8. Nguyên tắc cơ bản trong quản lý HCNN về KTTC (đề thi có thể chỉ yêu cầu trình bày một nguyên tắc)
8.1.NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG QUẢN LÝ HCNN VỀ KINH TẾ
8.2. NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ HCNN VỀ TÀI CHÍNH
Câu 9. Nội dung quản lý HCNN về KTTC( đề thi có thể chỉ bắt nêu một nội dung về kinh tế hoặc tài chính.
9.1. NỘI DUNG QUẢN LÝ HCNN VỀ KINH TẾ
9.2. NỘI DUNG QUẢN LÝ HCNN VỀ TÀI CHÍNH
Câu 10. Chủ thể quản lý HCNN về KTTC
Câu 11. Thẩm quyền quản lý KTTC của các cơ quan HCNN
Câu 13. Sự cần thiết phải cải cách bộ máy HCNN về KTTC
Câu 14. Mục tiêu, phương hướng cải cách bộ máy HCNN
Câu 15. Nguyên tắc xây dựng và thực hiện thủ tục HC
Câu 16. Sự cần thiết cải cách thủ tục HC
Phương hướng cải cách thủ tục HC
Câu 18. Khái niệm và bản chất của Nhà nước
Câu 19. Tại sao trong quản lý hành chính NN cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa PP giáo dục tư tưởng đạo đức và PP Hành chính
Câu 20. Các biện pháp cưỡng chế hành chính
Câu 21. Vai trò của hành chính nhà nước trong quản lý kinh tế. Phân biệt thể chế NN thời kỳ tập trung bao cấp và thời kỳ Kinh tế thị trường
Câu 22. Nội dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước
Câu 23. Yêu cầu chung về Văn bản và thể thức văn bản khi soạn thảo các văn bản qui phạm pháp luật
Câu 24.Tại sao nói nguyên tắc pháp chế XHCN phản ánh bản chất NN XHCN. Liên hệ với NN CHXHCN VN.
Câu 25. Sự khác nhau giữa tranh chấp hành chính và tranh chấp dân sự
Câu 26. Đặc điểm của thẩm quyền hành chính nhà nước

 

 

Câu1.Sự cần thiết khách quan quản lý nhà nước về kinh tế tài chính

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường có điều tiết-nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là, nền kinh tế nước ta chịu sự điều tiết của thị trường và chịu sự điều tiết của nhà nước (sự quản lý của Nhà nước). Sự quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là sự cần thiết khách quan, vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, phải khắc phục những hạn chế của việc điều tiết của thị trường, bảo đảm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đã đề ra.
Hoạt động KTTC rất phức tạp nhưng trong nền KTTT càng phức tạp hơn bởi trong nền KTTT tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau cho phép sự tham gia hoạt động KTTC của nhiều chủ thể khác nhau (khác cơ chế tập trung)
Nền KTTT ở VN có nhiều ưu điểm (tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức tham gia vào hoạt động KTTC, cạnh tranh lành mạnh với nhau, tạo ra sự phong phú đa dạng về HHDV, có thể đáp ứng 1 cách tốt nhất những yêu cầu của con người…)
Sự điều tiết của thị trường đối với sự phát triển kinh tế thật kỳ diệu nhưng bên cạnh đó vẫn có những hạn chế cục bộ. Ví dụ như tạo ra sự phân hóa giàu nghèo ngày 1 rõ nét, mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của các DN dẫn đến tình trạng khai thác quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên, phá hoại môi sinh. Thị trường không phải là nơi có thể đạt được sự hài hoà trong việc phân phối thu nhập xã hội, trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống xã hội, trong việc phát triển kinh tế xã hội giữa các vùng… Cùng với việc đó, thị trường cũng không khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, những mặt trái của nền kinh tế thị trường đã nêu ở trên. Tất cả điều đó không phù hợp và cản trờ việc thực hiện đầy đủ những mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội đã đề ra. Cho nên trong quá trình vận hành kinh tế, sự quản lý nhà nước đối với nền KTTC nhất là trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết để khắc phục những hạn chế, bổ sung chỗ hổng của sự điều tiết của trhị trường, đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Đó cũng là thực hiện nhiệm vụ hàng đầu của quàn lý nhà nước về kinh tế.
Thứ hai: Bằng quyền lực, chính sách và sức mạnh kinh tế của mình. Nhà nước phải giải quyết những mâu thuẫn lợi ích kinh tế tài chính phố biến, thường xuyên và cơ bản trong nền kinh tế quốc dân.
Trong quá trình hoạt động kinh tế, con người có mối quan hệ với nhau. Lợi ích kinh tế là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ đó. Mọi thứ mà con người phấn đấu đền liên quan đến lợi ích của mình. Trong nền kinh tế thị trường, mọi đối tác đều hướng tới lợi ích kinh tế riêng của mình. Nhưng, khối lượng kinh tế thì có hạn và không thể chia đều cho mọi người, nếu xẩy ra sự  tranh giành về lợi ích và từ đó phát sinh ra những mâu thuẫn về lợi ích. Trong nền kinh tế thị trường có những loại mâu thuẫn cơ bản sau đây:
– Mâu thuẫn giữa các doanh nghiệp với nhau trên thương trường.
– Mâu thuẫn giữa chủ và thợ trong các doanh nghiệp
– Mâu thuẫn giữa người sản xuất kinh doanh với toàn thể cộng đồng trong việc sử dụng tài nguyên và môi trường, không tính đến lợi ích chung trong việc họ cung ứng những hàng hoá và dịch vụ kém chất lượng, đe doạ sức khoẻ cộng đồng: trong việc xâm hại trật tự, an toàn xã hội, đe doạ an ninh quốc gia vì hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
– Ngoài ra, còn nhiều mâu thuẫn khác nữa như mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa cá nhân; công dân với Nhà nước, giữa các địa phương với nhau, giữa các ngành, các cấp với nhau trong quá trình hoạt động kinh tế của đất nước.
– Những mâu thuẫn này có tính phổ biến, thường xuyên và có tính căn bản vì liên quan đến quyền lợi “về sống-chết của con người”. đến sự ổn định kinh tế-xã hội. Chỉ có nhà nước mới có thể giải quyết được các mâu thuãn đó, điều hoà lợi ích của các bên.

Thứ ba, tính khó khăn phức tạp của sự nghiệp kinh tế tài chính
Để thực hiện bất kỳ một hoạt động nào cũng phải giải đáp các câu hỏi: Có muốn làm không? Có biết làm không? Có phương tiện để thực hiện không? Có hoàn cảnh để làm không? Nghĩa là, cần có những điều kiện chủ quan và khách quan tương ứng. Nói cụ thể và để hiểu, làm kinh tế nhất là làm giầu phải có ít nhất các điều kiên: ý chí làm giàu, trí thức làm giàu, phương tiện sản xuất kinh doanh và môi trường kinh doanh. Không phải công dân nào cũng có đủ các điều kiện trên để tiến hành làm kinh tế, làm giàu. Sự can thiệp của nhà nước rất cần thiết trong việc hỗ trợ công dân có những điều kiện cần thiết thực hiện sự nghiệp kinh tế.
Thứ tư, tính giai cấp trong kinh tế và bản chất giai cấp của nhà nước
Nhà nước hình thành từ khi xã hội có giai cấp. Nhà nước bao giừ cũng đại diện lợi ích của giai cấp thống trị nhất định trong đó có lợi ích kinh tế. Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam đại diện cho lợi ích dân tộc và nhân dân, Nhà nước của ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội do Nhà nước ta xác định và quản lý chỉ đạo là nhằm cuối cùng đem lại lợi ích vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tuy vây, trong nền kinh tế nhiều thành phần, mở cửa với nước ngoài, không phải lúc nào lợi ích kinh tế của các bên cũng luôn luôn nhất trí. Vì vậy, xuất hiện xu hướng vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong quá trình hoạt động kinh tế trên các mặt quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối.
Trong cuộc đấu tranh trên mặt trận kinh tế. Nhà nước ta phải thể hiện bản chất giai cấp của mình để bảo vệ lợi ích của dân tộc và của nhân dân ta. Chỉ có Nhà nước mới có thể làm được điều đó. Như vậy là, trong quá trình phát triển kinh tế, Nhà nước ta đã thể hiện bản chất giai cấp của mình.
Bốn lý do chủ yếu trên đây chính là sự cần thiết khách quan của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Câu 3. Khái niệm quản lý hành chính nhà nước về kinh tế tài chính

Quản lý là một quy trình mà chủ thể quản lý tiến hành thông qua sử dụng những công cụ và phương pháp thích hợp nhằm tác động và điều khiển đối tượng quản lý hoạt động và phát triển phù hợp với quy luật khách quan và đạt được các mục tiêu xác định.
Quản lý nhà nước là hoạt động của nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước.
Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành và điều hành của nhà nước
– Chấp hành là việc đảm bảo thực hiện trên thực tế các văn bản pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước
– Điều hành là chỉ đạo trực tiếp hoạt động của đối tượng quản lý và chủ thể quản lý.
 Tính chất điều hành thể hiện ở chỗ là để đảm bảo cho các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước được thực hiện. Các chủ thể quản lý hành chính phải tiến hành hoạt động tổ chức và chỉ đạo trực tiếp với các đối tượng quản lý thuộc quyền.
Quản lý hành chính nhà nước về kinh tế tài chính là hoạt động của các chủ thể quản lý thông qua việc sử dụng các phương pháp và công cụ quản lý để tác động và điều khiển các hoạt động này nhằm đạt được các mục tiêu đã định.

Câu 4. Hình thức quản lý HCNN về KTTC 

Khái niệm
Hình thức quản lý HCNN về KTTC là biểu hiện ra bên ngoài của những hành động cụ thể cùng loại của chủ thể quản lý HCNN về KTTC nhằm hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra.
Các hình thức
a) Các hình thức mang tính chất pháp lý
Là những hình thức được pháp luật quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, nội dung, có thể dẫn đến sự phát sinh, thay đổi, chấm dứt 1 quan hệ pháp luật TC cụ thể.
VD: Hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Hoạt động đăng ký doanh nghiệp.
b) Các hình thức không mang tính chất pháp lý
– Là những hình thức được pháp luật chỉ định thủ tục chung để tiến hành, không có khả năng làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt 1 quan hệ pháp luật TC cụ thể.
VD: Thủ tục tiến hành hội thảo, hội nghị; Thủ tục báo cáo công tác, rút kinh nghiệm
– Các hình thức không mang tính chất pháp lý có thể tiến hành trước hoặc sau hình thức mang tính chất pháp lý hoặc tạo điều kiện cần thiết cho việc tiến hành hoạt động mang tính chất pháp lý.
VD: Ra quyết định hành chính diễn ra sau khi ra báo cáo
– Có xu hướng chiếm số lượng lớn, nhiều hơn trong hoạt động của các chủ thể quản lý HCNN về KTTC.
Phân loại cụ thể
5 hình thức:
– Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
– Ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp luật.
– Thực hiện các hoạt động khác mang tính pháp lý.
– Tiến hành các hoạt động tổ chức trực tiếp.
– Thực hiện những tác động về nghiệp vụ – kỹ thuật.
a) Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
– Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục luật định; trong đó, chứa đựng các quy tắc xử xự chung, được nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
– Trong QLHCNN, hình thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật là hình thức QLHCNN quan trọng của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước nhằm thực hiện chức năng chấp hành và điều hành.
Hình thức này có những đặc điểm sau:
+ Các VBQPPL do các cơ quan QLHCNN ban hành nhằm mục đích cụ thể hóa, chi tiết hóa luật, pháp lệnh và các văn bản của cơ quan quản lý cấp trên.
+ Văn bản quy phạm pháp luật là phương tiện quan trọng để các chủ thể QLHCNN thực hiện chức năng điều hành.
Văn bản quy phạm pháp luật là phương tiện hữu hiệu để các chủ thể quản lý hành chính nhà nước tác động tích cực lên các lĩnh vực của đời sống xã hội thuộc quyền quản lý của mình trong khuôn khổ những yêu cầu chung của luật.
Cụ thể là thông qua hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật hành chính, các chủ thể của quản lý hành chính nhà nước:
~ Ấn định các quy tắc xử sự chung trong quản lý hành chính Nhà nước.
~ Quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính Nhà nước.
~ Quy định những hạn chế và những điều ngăn cấm.
~ Quy định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động của chủ thể quản lý…
– Yêu cầu khi ban hành VBQPPL:
+ Đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục.
+ Phù hợp với nội dung và mục đích của Luật, nghị quyết của cơ quan quyền lực và các văn bản do cơ quan quản lý cấp trên ban hành.
+ Phải bảo đảm tính kịp thời, phải thường xuyên rà soát để bổ sung những quy định không phù hợp, gây khó khăn cho quá trình quản lý.
Ví dụ: Quy định về mức xử phạt đối với tài xế xe khách có hành vi chở người vượt quá số ghế quy định của NĐ 152.

b) Ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp luật.
– Văn bản áp dụng quy phạm pháp luật là văn bản thi hành của văn bản quy phạm pháp luật, văn bản này được ban hành trên cơ sở văn bản quy phạm pháp luật nhằm giải quyết các công việc cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức.
Ví dụ: Quyết định xử phạt hành chính Nguyễn Văn An do đã có hành vi không đội mũ bảo hiểm khi ngồi trên môtô xe máy trên đoạn đường bắt buộc đội mũ bảo hiểm là một văn bản áp dụng quy phạm pháp luật. Văn bản này được ban hành căn cứ vào điểm g-khoản 3–Điều 9 – Nghị định 146/2007/NĐ-CP.
– Văn bản áp dụng quy phạm pháp luật có những đặc điểm sau:
+ Do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục luật định. Và được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế nhà nước.
+ Chứa đựng nội dung để giải quyết một vấn đề cụ thể. Được áp dụng một lần cho một hoặc một số đối tượng nhất định.
Đây là đặc trưng thể hiện sự khác biệt lớn nhất giữa văn bản áp dụng quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật.
+ Được ban hành trên cơ sở văn bản quy phạm pháp luật, trực tiếp làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính cụ thể.
– Hình thức ban hành văn bản áp dụng QPPL là hình thức hoạt động chủ yếu để các cơ quan QLHCNN sử dụng để giải quyết các công việc cụ thể, hàng ngày. Do đó VBADQPPL có số lượng rất lớn, có nội dung, tính chất và mục đích rất khác nhau. Tuy nhiên, căn cứ vào mục đích áp dụng, chúng ta có thể chia chúng thành hai nhóm lớn sau đây:
+ Những văn bản chấp hành pháp luật.
Trong trường hợp ban hành văn bản chấp hành pháp luật các chủ thể QLHCNN áp dụng hoặc hiện thực hóa phần quy định của quy phạm pháp luật tương ứng. Đây là hoạt động mang tính tích cực, thông qua hoạt động này quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước được hiện thực hoá trong thực tế.
Ví dụ: quyết định bổ nhiệm, quyết định cấp đất, quyết định chuyển mục đích sử dụng đất…
+ Những văn bản bảo vệ pháp pháp luật.
Trong trường hợp ban hành những văn bản bảo vệ pháp luật, các chủ thể QLHCNN áp dụng hoặc hiện thực hoá phần chế tài của quy phạm pháp luật tương ứng (ví dụ: quyết định xử phạt). Đây là hoạt động không thể thiếu của các chủ thể QLHCNN để đảm bảo pháp chế và kỷ luật nhà nước. Trên cơ sở những VBADQPPL loại này trách nhiệm hành chính của cá nhân, tổ chức vi phạm mới được phát sinh. Do đó các văn bản này có vai trị rất quan trọng để bảo vệ trật tự quản lý.
– Yêu cầu khi ban hành VBADQPPL:
+ Đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục
+ Chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản phải có kiến thức pháp lý và chuyên môn cần thiết, thận trọng trong từng trường hợp, xem xét kỹ mọi mặt của vấn đề cần giải quyết … để có thể đưa ra quyết định đúng đắn và hợp lý.
c) Thực hiện những hoạt động khác mang tính chất pháp lý
– Những hoạt động mang tính chất pháp lý là những hoạt động do các chủ thể quản lý hành chính nhà nước tiến hành khi phát sinh những điều kiện tương ứng được quy định trước trong các văn bản quy phạm pháp luật nhưng không cần ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp luật.
Những hoạt động mang tính pháp lý bao gồm rất nhiều các hoạt động cụ thể khác nhau, và được sử dụng phổ biến. Có thể kể đến như các hoạt động sau đây:
+ Thứ nhất: Ap dụng các biện pháp nhằm ngăn chặn và phòng ngừa vi phạm pháp luật như kiểm tra giấy phép lái xe, kiểm tra việc đăng ký tạm trú, tạm vắng…
Ví dụ: CSKV tiến hành kiểm tra tạm trú, tạm vắng, CSGT kiểm tra các loại giấy tờ của người điều khiển phương tiện giao thông.
+ Thứ hai: Đăng ký những sự kiện nhất định: như đăng ký hộ tịch, đăng ký cư trú…
+ Thứ ba: Lập và cấp một số giấy tờ nhất định như cấp giấy phép lái xe, cấp bằng tốt nghiệp…
+ Thứ tư: Công chứng, chứng thực.
Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.
Văn bản công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thoả thuận khác.
Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Toà án tuyên bố là vô hiệu.
Chứng thực là việc Uỷ ban nhân dân cấp Huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ.
+ Thứ năm: Lập biên bản VPHC.
Biên bản vi phạm hành chính: là văn bản của người có thẩm quyền ghi lại sự việc thực hiện hành vi vi phạm hành chính của cá nhân hoặc tổ chức để làm cơ sở cho cá nhân hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật phải tiến hành xử lý. Biên bản phải được lập theo đúng quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Các hoạt động mang tính pháp lý là hình thức quản lý hành chính nhà nước quan trọng, được thực hiện một cách rộng rãi, khi thực hiện các hoạt động này, chúng ta cần chú ý các đặc điểm sau:
– Đặc điểm của các hoạt động mang tính chất pháp lý:
+ Thứ nhất: Hoạt động này phải do cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành.
+ Thứ hai: Hoạt động này không có tác động pháp lý trực tiếp nhưng gián tiếp làm phát sinh những hậu quả pháp lý nhất định.
+ Thứ ba: Hình thức này chỉ tiến hành khi phát sinh những điều kiện tương ứng được quy định trước trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Như vậy, thực hiện các hoạt động mang tính pháp lý là hình thức hoạt động của các chủ thể QLHCNN để tổ chức thực hiện các văn bản QPPL. Các hoạt động này cũng có ảnh hưởng rất lớn đến quyền và nghĩa vụ của công dân. Chính vì vậy khi thực hiện các hoạt động mang tính pháp lý đòi hỏi chủ thể quản lý phải thực hiện đúng yêu cầu theo của pháp luật về trình tự, thủ tục, thẩm quyền.
d) Áp dụng những biện pháp tổ chức trực tiếp
– Áp dụng những biện pháp tổ chức trực tiếp là hình thức hoạt động không mang tính pháp lý do chủ thể quản lý hành chính nhà nước tiến hành nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi để ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định quản lý.
Tiến hành các hoạt động tổ chức trực tiếp gồm các hoạt động nghiên cứu, tổng kết và phổ biến những kinh nghiệm tiên tiến, áp dụng các biện pháp cụ thể nhằm ứng dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật vào quản lý, tổ chức kiểm tra, điều phối hoạt động, tổ chức hội thảo, tổ chức phong trào thi đua, v.v..
Ví dụ:Tổ chức hội nghị tổng kết năm, tổ chức míttinh tuyên truyền luật giao thông…
Áp dụng các biện pháp tổ chức trực tiếp là hình thức quản lý được các chủ thể QLHCNN sử dụng rộng rãi. Khi thực hiện các hoạt động này, chúng ta cần chú ý các đặc điểm sau:
+ Đây là hình thức không mang tính pháp lý, nhằm mục đích trợ giúp cho các hình thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật, ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp luật, thực hiện những hoạt động mang tính pháp lý.
Ví dụ: tổ chức hội nghị, hội thảo lấy ý kiến đóng góp dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật.
+ Các hoạt động tổ chức trực tiếp thường rất đa dạng và phong phú, thể hiện sự sáng tạo của cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
e) Thực hiện những tác động về nghiệp vụ – kỹ thuật
– Thực hiện những tác động về nghiệp vụ – kỹ thuật: là hoạt động sử dụng kiến thức nghiệp vụ, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào quá trình quản lý hành chính nhà nước.
Ví dụ: Việc sử dụng máy vi tính phục vụ cho công tác tác quản lý phương tiện giao thông… Sử dụng máy đo tốc độ có camera ghi hình, máy đo nồng độ cồn để làm căn cứ ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về GTĐB, sử dụng CNTT để quản lý dữ liệu cư trú…
Thực hiện những tác động về nghiệp vụ – kỹ thuật có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao hiệu suất công tác của bộ máy hành chính nhà nước, đảm bảo công tác quản lý hành chính nhà nước được tiến hành một cách nhanh chóng, hiệu quả và chính xác.

Câu 5. Phương pháp quản lý HCNN về KTTC

Khái niệm: Phương pháp quản lý HCNN về KTTC là tổng thể cách thức tác động có chủ đích của nhà nước lên các hoạt động KTTC nhằm thực hiện những mục tiêu quản lý của Nhà nước.
Yêu cầu chung của phương pháp quản lý
– Phải có khả năng tác động quản lý lên lĩnh vực chủ yếu của quản lý HCNN, có tính đến đặc điểm của lĩnh vực và sự phát triển của XH
– Phải đa dạng và thích hợp tác động lên các đối tượng khác nhau
– Có tính khả thi, mang lại hiệu quả cao
– Phải đảm bảo tính mềm dẻo, linh hoạt
– Phải có tính sáng tạo
– Phải phù hợp với đường lối chính trị
Các phương pháp áp dụng
Áp dụng tổng hợp các phương pháp sau:
1. Phương pháp tổ chức
Đây là phương pháp quan trọng trong quản lý nhà nước nói chung và quản lý HCNN về KTTC nói riêng.
Phương pháp này được sử dụng để sắp xếp các hoạt động KTTC theo những khuôn mẫu nhất định và thiết lập bộ máy quản lý phù hợp các hoạt động đó.
2. Phương pháp hành chính
Phương pháp này được sử dụng để buộc các đối tượng quản lý phải chấp hành các quy định hành chính.
Đây là cách thức tác động trực tiếp của NN thông qua các quy định có tính chất bắt buộc trong khuôn khổ pháp luật lên các chủ thể tham gia hoạt động KTTC nhằm thực hiện các mục tiêu của NN trong các tình huống nhất định.
Bản chất của pp này là sử dụng quyền lực NN.
NN phải hoàn thiện pháp lý, phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, quy định thủ tục HC. Bên cạnh đó NN phải có những tác động điều chỉnh hành vi của các tổ chức tham gia hoạt động KTTC. Áp dụng những biện pháp cưỡng chế cần thiết nhằm bảo đảm mục tiêu quản lý NN.
Phương pháp này được áp dụng để điều chỉnh những hành vi mà hâu quả của nó có thể gây thiệt hại cho cộng đồng và NN.
3. Phương pháp kinh tế
Phương pháp này dùng lợi ích vật chất để kích thích tính tích cực của các chủ thể tham gia hoạt động KTTC.
Đặc thù: không tác động đến đối tượng quản lý bằng cưỡng chế hành chính NN mà bằng lợi ích vật chất.
NN sẽ đề ra mục tiêu phục vụ nhiệm vụ phải đạt được, đặt ra những điều kiện khuyến khích nền kinh tế, cung cấp phương tiện, vật chất để đối tượng tham gia hoạt động KTTC tự thực hiện nhiệm vụ.
Phương pháp này được áp dụng trong hầu hết các trường hợp khi cần điều chỉnh những hành vi không có nguy cơ gây hậu quả xấu cho XH, cho NN hoặc chưa đủ điều kiện để áp dụng phương pháp hành chính cưỡng chế.
4. Phương pháp giáo dục
NN tác động bởi nhận thức, tình cảm của các đối tượng quản lý nhằm nâng cao tính tự giác, tích cực của họ trong hoạt động KTTC.
Phương pháp này cần được áp dụng trong mọi trường hợp và cần kết hợp với các phương pháp trên để mang lại hiệu quả cao nhất trong quản lý KTTC.
Sở dĩ phải kết hợp vì các phương pháp trên chỉ tác động bên ngoài, nếu như không còn thì các đối tượng quản lý có nguy cơ không quân theo quy định của chủ thế quản lý. Thông qua phương pháp giáo dục những yêu cầu quản lý mới được truyền tới đối tượng quản lý giúp họ cảm nhận được áp lực, động lực, biết sợ thiệt hại hoặc muốn có lợi ích từ đó tuân theo mục tiêu quản lý do NN đặt ra.

Câu 6.Công cụ quản lý KTTC ( có thể đề thi chỉ yêu cầu trình bày một nhóm công cụ)

Công cụ quản lý nói chung là tất cả mọi phương tiện mà chủ thể quản lý sử dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý đề ra.
Công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế tài chính là tổng thể những phương tiện mà Nhà nước sử dụng để thực hiện các chức năng quản lý kinh tế TC của Nhà nước nhằm đạt được các mục tiêu đã xác định. Thông qua các công cụ quản lý với tư cách là vật truyền dẫn tác động quản lý của Nhà nước mà Nhà nước chuyển tải được ý định và ý chí của mình đến các chủ thể, các thành viên tham gia hoạt động trong nền kinh tế.
Phân loại
1. Nhóm công cụ thể hiện ý đồ, mục tiêu quản lý của Nhà nước.
Xác định mục tiêu quản lý là việc khởi đầu quan trọng trong hoạt động quản lý Nhà nước về kinh tế. Các mục tiêu chỉ ra phương hướng và các yêu cầu về số lượng, chất lượng cho các hoạt động quản lý của Nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề cơ bản của nền kinh tế. Các công cụ thể hiện ý đồ, mục tiêu của quản lý có thể bao gồm:
– Đường lối phát triển kinh tế – xã hội: Đường lối phát triển kinh tế – xã hội là khởi đầu của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước do Đảng cầm quyền của các quốc gia xây dựng và thực hiện, đó là việc xác định trước một cái đích mà nền kinh tế cần đạt tới, để từ đó mới căn cứ vào thực trạng hoàn cảnh của nền kinh tế mà tìm ra lối đi, cách đi, trình tự và thời hạn tiến hành để đạt tới đích đã xác định.
Ở nước ta, đường lối phát triển kinh tế đất nước gắn liền với phát triển xã hội và do Đảng Cộng Sản Việt Nam thực hiện được thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng qua các thời kỳ đại hội.
Đường lối phát triển kinh tế có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với vận mệnh của đất nước, nó được coi là công cụ hàng đầu của Nhà nước trong sự nghiệp quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Đường lối đúng sẽ đưa đất nước đến phát triển, ổn định, giàu mạnh công bằng và văn minh. Đường lối sai sẽ đưa đất nước đi lầm đường lạc lối, là tổn thất, là đổ vỡ, là suy thoái, là hậu quả khôn lường về mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội.

– Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội: Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội là một hệ thống các quan điểm cơ bản, các mục tiêu lớn và các giải pháp chủ yếu được lựa chọn nhằm đạt được một bước đường lối phát triển kinh tế đất nước trong một chặng thời gian đủ dài. Thực chất chiến lược phát triển kinh tế – xã hội là sự cụ thể hóa đường lối phát triển doanh nghiệp trong mỗi chặng đường lịch sử của đất nước (thường là 10 năm, 15 năm, hoặc 20 năm) và cũng do Đảng cầm quyền chỉ đạo và xây dựng. Ở nước ta, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội do Đảng Cộng Sản Việt Nam xây dựng trong các Đại hội Đảng toàn quốc, như chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2010, đến năm 2020.
– Quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội: Quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội là việc đính hướng phát triển kinh tế dài hạn. Trong đó, xác định rõ qui mô và giới hạn cho sự phát triển. Thực chất qui hoạch là xác định khung vĩ mô về tổ chức không gian nhằm cung cấp những căn cứ khoa học cho các cơ quan quản lý Nhà nước để chỉ đạo vĩ mô nền kinh tế thông qua các kế hoạch, các chương trình, dự án đầu tư bảo đảm cho nền kinh tế phát triển mạnh, bền vững và có hiệu quả.
Thực chất của quy hoạch là cụ thể hóa chiến lược về không gian và thời gian. Trên thực tế, công tác quản lý kinh tế của Nhà nước có các loại quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch lãnh thổ, quy hoạch ngành, quy hoạch địa phương….
– Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội: Kế hoạch là cụ thể hóa chiến lược dài hạn, gồm có kế hoạch dài hạn, kế hoạch trung hạn, kế hoạch hàng năm. Thực chất, kế hoạch là một hệ thống các mục tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản được xác định như: tốc độ phát triển nền kinh tế, cơ cấu kinh tế, các cân đối lớn….các chỉ tiêu kế hoạch này bao quát các ngành, các vùng, các lĩnh vực và thành phần kinh tế.
Ở Việt Nam, các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội được xem là công cụ quan trọng trong quản lý nền kinh tế của Nhà nước.
– Chương trình phát triển kinh tế – xã hội: Chương trình phát triển kinh tế – xã hội là tổ hợp các mục tiêu, các nhiệm vụ, các thủ tục, các bước phải tiến hành, các nguồn lực và các yếu tố cần thiết để thực hiện một ý đồ lớn, một mục tiêu nhất định đã được xác định trong một thời kỳ nhất định. Ví dụ: chương trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, chương trình cải cách nền hành chính quốc gia, chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, chương trình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chương trình phát triển kinh tế đối ngoại, chương trình phát triển công nghiệp, chương trình phát triển kết cấu hạ tầng, chương trình phát triển khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường sinh thái, chương trình phát triển dịch vụ, chương trình phát triển kinh tế – xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc, chương trình xóa đói giảm nghèo….
Chương trình là cơ sở quan trọng để tập trung những nguồn lực hạn hẹp vào việc giải quyết có hiệu quả những nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch Nhà nước trong từng thời kì và cho phép khắc phục tình trạng tách rời giữa các nhiệm vụ của kế hoạch đã được xác định để thực hiện kế hoạch Nhà nước một cách có hiệu quả nhất.

2. Nhóm công cụ thể hiện chuẩn mực xử sự hành vi của các chủ thể tham gia hoạt động trong nền kinh tế.
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, thực hiện sự quản lý của mình đối với xã hội nói chung và nền kinh tế quốc dân nói riêng, chủ yếu bằng pháp luật và theo pháp luật.
Pháp luật về kinh tế được hiểu là hệ thống văn bản có tính quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành để thể hiện ý chí, quyền lực của Nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ trong nền kinh tế.
Hệ thống văn bản pháp luật trong quản lý Nhà nước về kinh tế có hai loại văn bản: văn bản qui phạm pháp luật và văn bản áp dụng quy phạm pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật gồm: (1) Văn bản do Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành: Hiến pháp, luật, nghị quyết, pháp lệnh, (2) Văn bản do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác ở Trung ương ban hành để thi hành Việt Nam quy phạm pháp luật của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành: lệnh, quyết định, chỉ thị, nghị quyết, thông tư, (3) Văn bản do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp ban hành để thi hành Việt Nam quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Việt Nam của cơ quan Nhà nước cấp trên. Văn bản áp dụng quy phạm pháp luật trong quản lý Nhà nước về kinh tế là những văn bản quy phạm pháp luật được ban hành để giải quyết các nhiệm vụ cụ thể đối với đối tượng cụ thể như các quyết định bổ, miễn nhiệm, đề bạt, nâng lương, khen thưởng, kỉ luật, điều động công tác đối với cán bộ công chức Nhà nước…
3.Nhóm công cụ thể hiện tư tưởng, quan điểm của Nhà nước trong viêc điều chỉnh các hoạt động của nền kinh tế.
Công cụ thể hiện tư tưởng, quan điểm của Nhà nước trong việc điều chỉnh các hoạt động của nền kinh tế, đó là chính sách kinh tế. Chính sách kinh tế là một hệ thống phức tạp gồm nhiều loại:
– Chính sách phát triển các thành phần kinh tế.
– Chính sách tài chính với các công cụ chủ yếu: chi tiêu của Chính phủ (G) và thuế (T).
– Chính sách tiền tệ với các công cụ chủ yếu: kiểm soát mức cung tiền (Ms) và lãi suất (r).
– Chính sách thu nhập với các công cụ chủ yếu: giá cả (P) và tiền lương (W).
–  Chính sách ngoại thương với công cụ chủ yếu: thuế nhập khẩu (Tn), hạn ngạch, trợ cấp xuất khẩu, tỉ giá hối đoái, cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế…
4. Nhóm công cụ vật chất làm động lực tác động vào đối tượng quản lý.
Công cụ vật chất được dùng làm áp lực, hoặc động lực tác động vào đối tượng quản lý của Nhà nước có thể bao gồm:
– Đất đai, rừng, núi, sông hồ, các nguồn nước, thềm lục địa….
– Tài nguyên trong lòng đất.
– Dự trữ quốc gia, bảo hiểm quốc gia.
– Vốn và tài sản của Nhà nước trong các doanh nghiệp.
– Các loại quỹ chuyên dùng vào công tác quản lý của Nhà nước.
5. Nhóm công cụ để sử dụng các công cụ nói trên.
Chủ thể sử dụng các công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế đã trình bày ở trên là các cơ quan quản lý của Nhà nước về kinh tế. Đó là các cơ quan hành chính Nhà nước, các công sở và các phương tiện kinh tế – kỹ thuật được sử dụng trong hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước.

Câu 7.Mục tiêu quản lý HCNN về KTTC

1. Mục tiêu quản lý HCNN về kinh tế
– Tạo môi trường pháp lý lành mạnh cho các quan hệ kinh tế phát triển bảo đảm cho các quan hệ KT được thực hiện đúng pháp luật từ đó đạt được các mục tiêu KT phục vụ tốt nhất cho việc thực hiện các chính sách chiến lược phát triển KTXH của NN đặt ra trong từng thời kỳ.
– Huy động tối đa các nguồn lực KT cho đầu tư phát triển tạo cơ sở đẩy mạnh phát triển các ngành, các lĩnh vực KTXH, giải quyết việc làm, đổi mới cơ cấu KT cơ cấu lao động, đẩy mạnh các hoạt động xuất nhập khẩu.
– Quản lý phân phối và sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực của SX đảm bảo tăng trưởng KT 1 cách ổn định bền vững.
– Giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa lợi ích KT và công bằng XH.
– Phát huy lợi ích so sánh trong quan hệ KT quốc tế.
2. Mục tiêu quản lý HCNN về tài chính
– Nâng cao tiềm lực TC của NN bảo đảm phân phối và sử dụng tiết kiệm có hiệu quả nguồn TC.
– Đổi mới TCDN nhằm nâng cao quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm của các DN thuộc mọi thành phần KT đảm bảo hoạt động SXKD của các tổ chức KT có hiệu quả.
– Phát triển đồng bộ thị trường TC đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của thị trường này đáp ứng các nhu cầu về TC cho sự phát triển KT đất nước trong từng thời kỳ.
– Chủ động hội nhập quốc tế và bảo đảm an ninh TC quốc gia tạo điều kiện và mở rộng quyền chủ động cho chủ thể trong XH tham gia vào quá trình phân công lao động trong quốc tế.

Câu 8. Nguyên tắc cơ bản trong quản lý HCNN về KTTC (đề thi có thể chỉ yêu cầu trình bày một nguyên tắc)

Nguyên tắc trong quản lý HCNN về KTTC là những tư tưởng chủ đạo mà trong quá trình quản lý các chủ thể cần phải tuân theo. Nó được hình thành một cách khách quan và luôn luôn phát triển.
8.1.NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG QUẢN LÝ HCNN VỀ KINH TẾ
Quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần vận dụng các nguyên tắc cơ bản sau đây:
– Nguyên tắc tập trung dân chủ.
– Nguyên tắc kết hợp quản lý ngành với quản lý theo lãnh thổ.
– Nguyên tắc phân định và kết hợp quản lý Nhà nước về kinh tế với quản lý sản xuất kinh doanh.
–  Nguyên tắc hài hòa lợi ích giữa người lao động, doanh nghiệp và xã hội.
–  Nguyên tắc tăng cường pháp chế XHCN trong quản lý Nhà nước về kinh tế.
1. Tập trung dân chủ
Khái niệm
Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa hai mặt cơ bản “tập trung” và “dân chủ” trong mối quan hệ hữu cơ biện chứng chứ không phải chỉ là tập trung, hoặc chỉ là dân chủ. “Dân chủ” là điều kiện, là tiền đề của tập trung; cũng như “tập trung” là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện. Hay nói cách káhc, tập trung phải trên cơ sở dân chủ; dân chủ phải trong khuôn khổ tập trung.
Nguyên tắc tập trung dân chủ được đặt ra xuất phát từ lí do sau đây: hoạt động kinh tế và việc của công dân, nên công dân phải có quyền (đó là dân chủ), đông thời, trong một chừng mực nhất định, hoạt động kinh tế của công dân có ảnh hưởng rõ rệt tới lợi ích của Nhà nước, lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng, do đó Nhà nước cũng phải có quyền (đó là tập trung).
Hướng vận dụng nguyên tắc
– Bảo đảm cho cả Nhà nước và công dân, cho cả cấp trên và cấp dưới, tập thể và các thành viên tập thể đều có quyền quyết định, không thể chỉ có Nhà nước hoặc chỉ có công dân, chỉ có cấp trên hoặc chỉ có cấp dưới có quyền. Có nghĩa là vừa phải có tập trung, vừa phải có dân chủ.
– Quyền của mỗi bên (Nhà nước và công dân; cấp trên và cấp dưới) phải được xác lập một cách có căn cứ khoa học và thực tiễn. Có nghĩa là, phải xuất phát từ yêu cầu và khả năng làm chủ của mỗi chủ thể: Nhà nước và công dân, cấp trên và cấp dưới.
– Trong mỗi cấp của hệ thống quản lý nhiều cấp của Nhà nước phải bảo đảm vừa có cơ quan thẩm quyền chung, vừa có cơ quan thẩm quyền riêng. Mỗi cơ quan phải có thẩm quyền rõ rệt, phạm vi thẩm quyền của cơ quan thẩm quyền riêng phải trong khuôn khổ thẩm quyền chung. Trong cơ quan thẩm quyền chung, mỗi ủy viên phải được giao nhiệm vụ nghiên cứu chuyên sâu một số vấn đề, có trách nhiệm phát biểu sâu sắc về các vấn đề đó, đồng thời tập thể được trao đổi, bổ sung và biểu quyết theo đa số.
Tập trung quan liêu vào cấp trên, vào trung ương hoặc phân tán, phép vua thua lệ làng; chuyên quyền, độc đoán của Nhà nước đến mức vi phạm nhân quyền, dân quyền hoặc dân chủ quá trớn trong hoạt động kinh tế đều trái với nguyên tắc tập trung dân chủ. Khuynh hướng phân tán, tự do vô tổ chức của nền sản xuất nhỏ đang là cản trở nguy hại và phổ biến hiện nay.
2. Kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ
Quản lý Nhà nước theo ngành
a) Khái niệm ngành trong kinh tế (ngành kinh tế kỹ thuật)
Ngành kinh tế kỹ thuật là tổng hợp của nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh, mà hoạt động của chúng có những đặc trưng kỹ thuật – sản xuất giống nhau, hoặc tương tự nhau, vê: cùng thực hiện một phương pháp công nghệ hoặc công nghệ tương tự; sản phẩm sản xuất ra từ một loại nguyên liệu hay nguyên liệu đồng loại; sản phẩm có công dụng cụ thể giống nhau hoặc tương tự nhau. Chẳng hạn, về công nghệ sản xuất có ngành công nghiệp khai thác, ngành công nghiệp hóa học, ngành công nghiệp sinh hóa; về nguyên liệu cho sản xuất có ngành công nghiệp chế biến xen-luy-lo, ngành công nghiệp chế biến kim loại đen, kim loại màu; về công dụng của sản phẩm có ngành công nghiệp thực phẩm, ngành chế tạo ô tô, ngành công nghiệp điện tử
b) Khái niệm quản lí theo ngành
Quản lý theo ngành là việc quản lý về mặt kỹ thuật, về nghiệp vụ chuyên môn của Bộ quản lý ngành ở trung ương đối với tất cả các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc ngành trong phạm vi cả nước.
c) Sự cần thiết phải quản lý theo ngành
Các đơn vị sản xuất trong cùng một ngành có rất nhiều mối liên hệ với nhau. Chẳng hạn, các mối liên hệ về sản phẩm sản xuất ra ( như các thông số kỹ thuật để đảm bảo tính lắp lẫn; chất lượng sản phẩm; thị trường tiêu thụ…); các mối liên hệ về việc hỗ trợ và hợp tác (như hỗ trợ và hợp tác trong việc sử dụng lao động; trang bị máy móc thiết bị; ứng dụng công nghệ – kỹ thuật; áp dụng kinh nghiệm quản lý…)
d) Nội dung quản lý Nhà nước theo ngành
Quản lý Nhà nước theo ngành bao gồm các nội dung quản lý sau đây:
– Trong việc xây dựng và triển khai thực hiện pháp luật, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế toàn ngành.
– Trong việc xây dựng và triển khai thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các dự án phát triển kinh tế toàn ngành.
– Trong việc xây dựng và triển khai các chính sách, biện pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực, nguồn vốn, nguồn nguyên liệu và khoa học công nghệ….cho toàn ngành.
– Trong việc xây dựng và triển khai thực hiện các quan hệ tài chính giữa các đơn vị kinh tế trong ngành với Ngân sách Nhà nước.
–  Thống nhất trong toàn ngành và liên ngành về việc tiêu chuẩn hóa quy cách, chất lượng sản phẩm. Hình thành tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng sản phẩm.
– Trong việc thực hiện các chính sách, biện pháp phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm chung cho toàn ngành và thực hiện sự bảo hộ sản xuất của ngành nội địa trong những trường hợp cần thiết.
– Trong việc áp dụng các hình thức tổ chứ sản xuất khoa học và hợp lý các đơn vị sản xuất kinh doanh trong toàn ngành.
–  Trong việc thanh tra và kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế trong ngành. Định hướng đầu tư xây dựng lực lượng của ngành, chống sự mất cân đối trong cơ cấu ngành và vị trí ngành trong cơ cấu chung cua rnền kinh tế quốc dân.
–  Thực hiện các chính sách, các biện pháp phát triển thị trường chung cho toàn ngành, bảo hộ sản xuất ngành nội địa.
–  Thống nhất hóa, tiêu chuẩn hóa quy cách, chất lượng hàng hóa và dịch vụ, hình thành hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng sản phẩm để cơ quan có thẩm quyền ban bố.
– Thực hiện các biện pháp, các chính sách quốc gia trong phát triển nguồn nhân lực, nguồn nguyên liệu, nguồn trí tuệ khoa học và công nghệ chung cho toàn ngành.
– Tham gia xây dựng các dự án Luânt, pháp lệnh, pháp quy, thẻ chế kinh tế theo chuyên môn của mình để cùng các cơ quan chức năng chuyên môn khác hình thành hệ thống văn bản pháp luật quản lý ngành.
 Quản lí theo lãnh thổ
a) Khái niệm lãnh thổ
Lãnh thổ của một nước có thê chia ra thành nhiều vùng lãnh thổ khác nhau, trong đó có lãnh thổ của các đơn vị hành chính với các cấp độ khác nhau. Chẳng hạn: lãnh thổ Việt Nam dược chia thành 4 cấp: lãnh thổ cả nước, lãnh thổ tỉnh, lãnh thổ huyện, lãnh thổ xã.
b) Khái niệm quản lý theo lãnh thổ
Quản lý về Nhà nước trên lãnh thổ là việc tổ chức, điều hòa, phối hợp hoạt động của tất cả các đơn vị kinh tế phân bổ trên địa bàn lãnh thổ (ở nước ta, chủ yếu là theo lãnh thổ của các đơn vị hành chính)
c) Sự cần thiết phải thực hiện quản lý kinh tế theo lãnh thổ
Các đơn vị kinh tế phân boỏ tren cùng một địa bàn lãnh thổ (có thể cùng một ngành hoặc không cùng ngành) có nhêìu mối quan hệ. Có thể kể đến các mối quan hệ chủ yếu sau:
– Mối quan hệ về việc cung cấp và tiêu thụ sản phẩm của nhau.
– Sự hợp tác và liên kết với nhau trong việc khai thác và sử dụng các nguồn lực sẵn có trên địa bàn lãnh thổ. Cụ thể: trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, lâm sản, hải sản,…), khai thác và sử dụng điều kiện tự nhiên ( như đất đai, thời tiết, sông hồ, bờ biển, thềm lục địa…); sử dụng nguồn nhân lực và ngành; xử lí chất thải, bảo vệ môi trường sinh thái; sử dụng kết cấu hạ tầng kỹ thuật (giao thông, cung ứng điện nước, bưu chính viễn thông…)
Chính vì giữa các đơn vị kinh tế trên địa bàn lãnh thổ có nhiều mối quan hệ như trên nen đòi hỏi phải có sự tổ chức, điều hòa và phối hợp hoạt động của chúng để đảm bảo một cơ cấu kinh tế lãnh thổ hợp lí và hoạt động kinh tế có hiệu quả trên địa bàn lãnh thổ.
d) Nội dung quản lý kinh tế theo lãnh thổ
–  Xây dựng quy hoạch, kế hoạch và dự án phát triển kinh tế – xã hội trên lãnh thổ ( không phân biệt kinh tế trung ương, kinh tế địa phương, các thành phần kinh tế khác nhau) nhằm xây dựng  một cơ cấu kinh tế lãnh thổ hợp lí và có hiệu quả.
–  Điều hòa, phối hợp hoạt động sản xuất kinh doanh của tất cả các đơn vị kinh tế trên lãnh thổ nhằm tận dụng tối đa và sử dụng một cách có hiệu quả nhất nguồn lực sẵn có tại địa phương.
–  Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật của từng vùng lãnh thổ bao gồm: hệ thống giao thông vận tải; cung ứng điện năng; cấp thoát nước; đường sá, cầu cống; hệ thống thông tin liên lạc….để phục vụ chung cho cả cộng đồng kinh tế trên lãnh thổ.
–  Thực hiện công tác thăm dò, đánh giá tài nguyên thiên nhiên trên địa bàn lãnh thổ.
–  Thực hiện sự phân bố các cơ sở sản xuất trên địa bàn lãnh thổ một cách hợp lí và phù hợp với lợi ích quốc gia.
–  Quản lý, kiểm soát việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên quốc gia trên địa bàn lãnh thổ.
–  Quản lý, kiểm soát việc xử lí chất thải, bảo vệ môi trường sinh thái trên địa bàn lãnh thổ.
Kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ
a) Khái niệm
Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ trên tất cả mọi lĩnh vực kinh tế. Cả hai chiều quản lý đều phải có trách nhiệm chung trong việc thực hiện mục tiêu của ngành cũng như của lãnh thổ. Sự kết hợp này sẽ tránh được tư tưởng bản vị của bộ, ngành, trung ương và tư tưởng cục bộ địa phương của chính quyền địa phương. Theo đó, Bộ chỉ quan tâm đến lợi ích của các đơn vị kinh tế do mình thành lập và Ủy ban nhân dân địa phương chỉ quan tâm đến lợi ích của các đơn vị kinh tế của địa phương. Từ đó, dẫn đến tình trạng tranh chấp, không có sự liên kết giữa các đơn vị kinh tế trên cùng một địa bàn lãnh thổ, do đó hiệu quả thấp.
b) Nội dung kết hợp
Sự kết hợp quản lý nhà nước theo ngành và theo lãnh thổ được thực hiện như sau:
– Thực hiện quản lý đồng thời cả hai chiều: Quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ. Có nghĩa là, các đơn vị đó phải chịu sự quản lý của ngành (Bộ) đồng thời nó cũng phải chịu sự quản lý theo lãnh thổ của chính quyền địa phương trong một số nội dung theo chế độ quy định.
– Có sự phân công quản lý rành mạch cho các cơ quan quản lý theo ngành và theo lãnh thổ, không trùng lặp, không bỏ sót về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.
– Các cơ quan quản lý nhà nước theo mỗi chiều thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý theo thẩm quyền của mình trên cơ sở đồng quảnl hiệp quản, tham quản với cơ quan nhà nước thuộc chiều kia, theo quy định cụ thể của Nhà nước. Đồng quản là cùng có quyền và cùng nhau ra quyết định quản lý theo thể thức liên tịch. Hiệp quản là cùng nhau ra quyết định quản lý theo thẩm quyền, theo vấn đề thuộc tuyến của mình nhưng có sự thương lượng, trao đổi, bàn bạc để hai loại quyết định của mỗi bên tương đắc với nhau. Tham quản là việc quản lý , ra quyết định của mỗi bên phải trên cơ sở được lấy ý kiến của bên kia.
3. Phân định và kết hợp quản lý nhà nước về kinh tế với quản lý sản xuất, kinh doanh
Sự cần thiết của việc phân biệt quản lý nhà nước về kinh tế với quản lý sản xuất, kinh doanh
Quản lý nhà nước về kinh tế với quản lý sản xuất-  kinh doanh là hai phạm trù, hai mặt khác nhau của quá trình quản lý, cần có sự phân biệt vì những lý do sau đây:
Một là, trong thời kỳ đổi mới, trong cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, đã từng không có sự phân biệt giữa hai loại quản lý nói trên. Điều này thể hiện ở việc Nhà nước can thiệp một cách toàn diện, triệt để và sâu rộng vào mọi hoạt động của sản xuất- kinh doanh của các doanh nghiệp, đồng thời các doanh nghiệp lại được giao cho thực hiệnc một số chức năng vượt quá khả năng và tầm kiểm soát của chúng. Đó là chế độ quản lý tập trung, quan liêu, can thiệp quá sâu vào nội bộ của doanh nghiệp. Bên cạnh đó còn là việc giao cho bộ máy quản lý doanh nghiệp một số chức năng quản lý mà chỉ có Nhà nước mới có thể đảm nhận được.
Hai là, việc phân biệt quản lý nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh cho phép định rõ được trách nhiệm của cơ quan nhà nước và trách nhiệm của cơ quan sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp. Chỉ khi đó, mọi sai lầm trong quản lý dẫn đến tổn thất tài sản quốc gia, lợi ích của nhân dân sẽ được truy tìm nguyên nhân, thủ phạm. Không ai có thể trốn tránh trách nhiệm.
Ba là, trong điều kiện nền kinh tế tồn tại nhiều hình thức sở hữu, việc không phân biệt quản lý nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh là vi phạm tính tự do kinh doanh và sự chịu trách nhiệm cảu các đơn vị kinh tế trong nền kinh tế thị trường và trong khuôn khổ pháp luật, làm thui chột tính năng động, sáng tạo của giới kinh doanh và hạn chế hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Nội dung cần phân biệt giữa quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý sản xuất, kinh doanh
Có thể phân biệt sự khác nhau trên 5 tiêu chí sau đây:
–  Về chủ thể quản lý: chủ thể quản lý nhà nước về kinh tế là các cơ quan nhà nước, còn chủ thể quản lý sản xuất kinh doanh là các doanh nhân.
–  Về phạm vi quản lý: Nhà nước quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quản lý ttất cả các doanh nhân, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trên tất cả các lĩnh vực, thuộc tất cả các ngành, còn doanh nhân thì quản lý doanh nghiệp của mình. Quản lý nhà nước về kinh tế là quản lý vĩ mô còn quản lý sản xuất, kinh doanh là quản lý vi mô.
–  Về mục tiêu quản lý: quản lý nhà nước theo đuổi lợi ích toàn dân, lợi ích cộng đồng (phát triển nền kinh tế quốc dân, ổn định sự phát triển kinh tế- chính trị- xã hội, tăng thu nhập quốc dân, tăng mức tăng trưởng của nền kinh tế, giải quyết việc làm…). Quản lý sản xuất kinh doanh theo đuổi lợi ích riêng của mình (thu được lợi nhuận cao, ổn định và phát triển doanh nghiệp, tăng thị phần, tạo uy tín cho sản phẩm của doanh nghiệp…)
– Về phương pháp quản lý: Nhà nước áp dụng tổng hợp các phương pháp quản lý (phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế, phương pháp giáo dục), trong đó phương pháp đặc trưng của quản lý nhà nước là cưỡng chế bằng quyền lực nhà nước. Trong khi đó, doanh nhân chủ yếu áp dụng phương pháp kinh tế và giáo dục thuyết phục.
– Về công cụ quản lý: Công cụ chủ yếu trong quản lý nhà nước về kinh tế là: đường lối phát triển kinh tế, chiến lược phát triển kinh tế, kế hoạch phát triển kinh tế, pháp luật kinh tế, chính sách kinh tế, lực lượng vật chất và tài chính của Nhà nước. Các doanh nghiệp có công cụ quản lý chủ yếu là: chiến lược kinh doanh, kế hoạch sản xuât- kỹ thuật – tài chính, dự án đầu tư để phát triển kinh doanh, các hợp đồng kinh tế, các quy trình công nghệ, quy phạm pháp luật, các phương pháp và phương tiện hạch toán.
4. Nguyên tắc tăng cưòng pháp chế XHCN trong quản lý nhà nước về kinh tế
Sự cần thiết của việc thực hiện nguyên tắc
Một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định  hướng XHCN ở nước ta hiện nay là một nền kinh tế đa sở hữu về tư liệu sản xuất. Chính sự xuất hiện của nhiều loại hình kinh tế thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau như: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân tư bản, kinh tế tư nhân…đòi hỏi Nhà nước phải quản lý đối với nền kinh tế bằng những biện pháp, trong đó đặc biệt phải coi trọng phương pháp quản lý bằng pháp luật, trên cơ sở pháp luật. Thực tiễn quản lý nhà nước đối với nền kinh tế ở nước ta trong những năm qua cho thấy, tình trạng buông lỏng kỷ luật, kỷ cương, sự hữu khuynh trong việc thực hiện chức năng tổ chức, giáo dục, xem nhẹ pháp chế trong hoạt động kinh tế của nhiều doanh nghiệp…đã làm cho trật tự kinh tế ở nước ta có nhiều rối loạn, gây ra những tổn thất không nhỏ cho đât nước, đồng thời làm giảm sút nghiêm trọng uy tín va làm lu mờ quyền lực của Nhà nước. Vì vậy, việc thực hiện nguyên tác tăng cường pháp chế XHCN là một yêu cầu khách quan của quá trình quản lý kinh tế của Nhà nước ta.
Yêu cầu của việc thực hiện nguyên tắc
Để thực hiện nguyên tắc trên cần phải tăng cường công tác lập pháp và tư pháp.
– Về lập pháp, phải từng bước đưa mọi quan hệ kinh tế vào khuôn khổ pháp luật. Các đạo luật phải được xây dựng đầy đủ, đồng bộ, có chế tài rõ ràng, chính xác và đúng mức.
– Về tư pháp, mọi việc phải được thực hiện nghiêm mimh (từ khâu giám sát, phát hiện, điều tra, công tó đến khâu xét xử, thi hành án…) không để xảy ra tình trạng có tội không bị bắt, bắt rồi không xét xử hoặc xét xử quá nhẹ, xử rồi mà không thi hành án hoặc thi hành án nửa vời v.v

8.2. NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ HCNN VỀ TÀI CHÍNH
Hoạt động quản lý tài chính được thực hiện theo những nguyên tắc cơ bản sau:.
– Nguyên tắc tập trung dân chủ: Tập trung dân chủ là nguyên tắc hàng đầu trong quản lý tài chính. Điều này được thể hiện ở quản lý ngân sách nhà nước, quản lý quỹ tài chính nhà nước và quản lý tài chính đối với các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp. Tập trung dân chủ đảm bảo cho các nguồn lực của xã hội, của nền kinh tế được sử dụng tập trung và phân phối hợp lý. Các khoản thu-chi trong quản lý tài chính công phải được bàn bạc thực sự công khai nhằm đáp ứng các mục tiêu vì lợi ích cộng đồng.
-Nguyên tắc hiệu quả: Nguyên tắc, hiệu quả là nguyên tắc quan trọng trong quản lý tài chính. Hiệu quả trong quản lý tài chính được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội. Khi thực hiện các nội dung chi tiêu công cộng, Nhà nước luôn hướng tới việc thực hiện các nhiệm vụ và mục tiêu trên cơ sở lợi ích của toàn thể cộng đông. Ngoài ra, hiệu quả kinh tế cũng là thước đo quan trọng để Nhà nước cân nhắc khi ban hành các chính sách và các quyết định liên quan đến chi tiêu công. Hiệu quả về xã hội là tiêu thức rất cần quan tâm trong quản lý tài chính. Mặc dù rất khó định lượng, song những lợi ích của xã hội luôn được đề cập, cân nhắc, thận trọng trong quá trình quản lý tài chính công. Hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế là hai nội dung quan trọng phải được xem xét đồng thời khi hình thành một quyết định, hay một chính sách chi tiêu ngân sách.
– Nguyên tắc thống nhất: Thống nhất quản lý theo những văn bản pháp luật là nguyên tắc không thể thiếu trong quản lý tài chính. Thống nhất quản lý chính là việc tuân thủ theo một quy định chung từ việc hình thành, sử dụng, kiểm tra thanh tra, thanh quyết toán, xử lý các vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện. Thực hiện nguyên tắc quản lý thống nhất sẽ đảm bảo tính bình đẳng, công bằng, đảm bảo hiệu quả, hạn chế những tiêu cực và những rủi ro khi quyết định các khoản chi tiêu công.
– Nguyên tắc công khai, minh bạch: Công khai minh bạch trong động viên, phân phối các nguồn lực tài chính, là nguyên tắc quan trọng nhằm đảm bảo cho việc quản lý nguồn tài chính được thực hiện thống nhất và hiệu quả. Thực hiện công khai minh bạch trong quản lý sẽ tạo điều kiện cho cộng đồng có thể giám sát, kiểm soát các quyết định về thu, chi trong quản lý tài chính, hạn chế những thất thoát và đảm bảo hiệu quả của những khoản thu, chi tiêu công.

Câu 9. Nội dung quản lý HCNN về KTTC( đề thi có thể chỉ bắt nêu một nội dung về kinh tế hoặc tài chính.

9.1. NỘI DUNG QUẢN LÝ HCNN VỀ KINH TẾ
Việc quản lý nhà nước (QLNN) về kinh tế bao gồm các nội dung cơ bản sau đây:
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế
– Làm cho bộ máy tinh gọn, bảo đảm sự điều hành tập trung thống nhất, thông suốt, có hiệu lực và hoạt động hiệu quả.
– Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp, mỗi cơ quan để từng cơ quan đủ sức tổ chức quản lý giải quyết kịp thời đúng thẩm quyền những vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình.
– Phải xây dựng đội ngũ CBCC có uy tín về chính trị, có phẩm chất đạo đức, có trình độ chuyên môn, công tâm, có trách nhiệm khi thừa hành công việc nói chung và quản lý NN về KT nói riêng.
Xây dựng phương hướng, mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước
Cụ thể là:
– Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
– Xây dựng hệ thống chính sách, tư tưởng chiến lược để chỉ đạo việc thực hiện các mục tiêu đó.
Xây dựng pháp luật kinh tế
Tầm quan trọng của việc xây dựng pháp luật trong hệ thống các hoạt động QLNN về kinh tế
Hoạt động này có tác dụng:
– Tạo cơ sở để công dân làm kinh tế.
– Pháp luật và thể chế là điều kiện tối cần thiết cho một hoạt động kinh tế- xã hội.
Các loại pháp luật kinh tế cần được xây dựng
Hệ thống pháp luật kinh tế gồm rất nhiều loại. Về tổng thể, hệ thống đó bao gồm hai loại chính sau:
– Hệ thống pháp luật theo chủ thể hoạt động kinh tế như Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Hợp tác xã, Luật doanh nghiệp tư nhân và công ty,v.v… Loại hình pháp luật này thực chất  là Luật tổ chức các đơn vị kinh tế, theo đó, sân chơi kinh tế được xác định trước các loại chủ thể tham gia cuộc chơi do Nhà nước làm trọng tài.
– Hệ thống pháp luật theo khách  thể  như Luật Tài nguyên môi trường, được Nhà nước đặt ra cho mọi thành viên trong xã hội, trong đó chủ yếu là các doanh nhân, có tham gia vào việc sử dụng các yếu tố nhân tài, vật lực và tác động vào môi trường thiên nhiên.
Tổ chức hệ thống các doanh nghiệp
Tổ chức và không ngừng hoàn thiện tổ chức hệ thống doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn phát triển của đất nước, bao gồm;
– Đánh giá hệ thống doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hiện có, xác định những mặt tốt, mặt xấu của hệ thống hiện hành.
– Loại bỏ các mặt yếu kém bằng phương thức thích hợp: cổ phần hóa, bán, khoán, cho thuê, giao,vv…
– Tổ chức xây dựng mới các DNNN cần thiết.
– Củng cố các DNNN hiện còn cần tiếp tục duy trì nhưng yếu kém về mặt này, mặt khác, nâng cấp để các DNNN này ngang tầm vị trí được giao.
Xúc tiến các hoạt động pháp lý và hỗ trợ để các đơn vị kinh tế dân doanh ra đời
– Thực hiện các mặt về pháp luật cho các hoạt động của doanh nhân trên thương trường: xét duyệt, cấp phép đầu tư, kinh doanh,vv…
– Thực hiện các hoạt động hỗ trợ về tư pháp, thông tin, phương tiện,vv…
Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng cho mọi hoạt động kinh tế của đất nước
– Xây dựng quy hoạch, thiết kế tổng thể, thực hiện các dự án phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng của nền kinh tế.
– Tổ chức việc xây dựng
– Quản lý, khai thác, sử dụng
Kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các đơn vị kinh tế
– Kiểm tra việc tuân thủ pháp luật kinh doanh.
– Kiểm tra việc tuân thủ pháp luật lao động, tài nguyên, môi trường.
– Kiểm tra việc tuân thủ phápluật về tài chính, kế toán, thống kê, vv…
– Kiểm tra chất lượng sản phẩm.
Thực hiện và bảo vệ lợi ích của xã hội , của nhà nước và của công dân
Các loại lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội chịu sự ảnh hưởng của hoạt động kinh tế mà Nhà nước có nhiệm vụ thực hiện và bảo vệ
– Phần vốn của Nhà nước trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
– Các khoản được thu của Nhà nước vào ngân sách nhà nước từ các hoạt động kinh tế của công dân.
Nội dung bảo vệ bao gồm
– Tổ chức bảo vệ công sản.
– Thực hiện việc thu thuế, phí, các khoản lợi ích khác.

9.2. NỘI DUNG QUẢN LÝ HCNN VỀ TÀI CHÍNH
– Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật tài chính, tạo môi trường pháp lý cho hoạt động TC phát triển.
– Xây dựng chính sách, chế độ quản lý TC, ban hành các quy phạm pháp luật cụ thể hóa chính sách, chế độ quản lý TC.
– Cung cấp thông tin về thị trường TC trong và ngoài nước tới các chủ thể tham gia hoạt động TC; dự báo xu hướng thị trường TC, hoạt động TC.
– Tạo lập và cải thiện môi trường KT, pháp lý, văn hóa, chính trị, XH để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động TC; hướng dẫn, điều tiết và phối hợp các hoạt động TC; giải quyết, xử lý các vấn đề ngoài khả năng của các tổ chức cá nhân; tham gia giải quyết tranh chấp khi có nhu cầu.
– Xây dựng và thực hiện chiến lược quy hoạch, kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý TC; xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn bằng cấp chứng chỉ của các loại cán bộ quản lý TC.
– Kiểm tra giám sát các hoạt động TC.
Câu 10. Chủ thể quản lý HCNN về KTTC
Các cơ quan HCNN là cơ quan trực tiếp thực hiện quản lý HCNN về KTTC tức là thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành của NN trong lĩnh vực KTTC. Vì vậy khi đề cập đến các cơ quản quản lý HCNN về KTTC là đang đề cập đến cơ quan HCNN.
Cơ quan HCNN là bộ phận hợp thành của bộ máy NN do cơ quan quyền lực cùng cấp thành lập để thực hiện các chức năng quản lý HCNN.
Đặc điểm chung (Đặc điểm của cơ quan NN)
– Có quyền nhân danh NN khi tham gia vào các quan hệ pháp luật nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý với mục đích hướng tới lợi ích công.
– Được thành lập và hoạt động dựa trên những quy định của pháp luật, có chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền riêng và có những mối quan hệ phối hợp trong thực thi công việc được giao.
– Nguồn nhân sự chính là đội ngũ  CBCC được hình thành từ tuyển dụng, bổ nhiệm bầu cử theo quy định của Luật CBCC.
Đặc điểm riêng của cơ quan HCNN
– Có chức năng quản lý HCNN
– Hệ thống các cơ quan HCNN được thành lập từ trung ương đến cơ sở đứng đầu là chính phủ tạo thành 1 chỉnh thể thống nhất được tổ chức theo hệ thống cấp bậc, có mỗi quan hệ mật thiết phục vụ nhau và hoạt động nhằm thực thi quyền quản lý HCNN.
– Thẩm quyền của cá cơ quan HCNN được pháp luật quy định dựa trên cơ sở lãnh thổ, ngành và lĩnh vực chuyên môn mang tính tổng hợp. Đó là những quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính, chỉ giới hạn trong lĩnh vực chấp hành và điều hành.
– Các cơ quan này trực tiếp hoặc gián tiếp trực thuộc cơ quan quyền lực NN cùng cấp, chịu sự giám sát và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực NN.
– Các cơ quan HCNN có hệ thống đơn vị cơ sở trực thuộc
Phân loại theo phạm vi quản lý
+ Ở trung ương:
~ Chính phủ: là cơ quan quản lý NN có thẩm quyền chung (quản lý mọi ngành mọi lĩnh vực KT trên phạm vi toàn quốc)
~ Bộ: là cơ quan quản lý NN có thẩm quyền chuyên môn (quản lý 1 số ngành, lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc)
+ Ở địa phương:
~ UBND các cấp: là cơ quan quản lý NN có thẩm quyền chung, quản lý trên phạm vi địa phương.
~ Sở, phòng, ban: là cơ quan quản lý NN có thẩm quyền chuyên môn, quản lý trên phạm vi địa phương.
Phân loại theo thẩm quyền quản lý
– Cơ quan NN có thẩm quyền chung
– Cơ quan NN có thẩm quyền chuyên môn
Phân loại theo nguyên tắc tổ chức và giải quyết công việc
– Cơ quan HCNN theo chế độ tập thể lãnh đạo: là cơ quan HCNN có thẩm quyền chung. Các cơ quan này thường giải quyết công việc và quyết định các vấn đề quan trọng có liên quan đến nhiều lĩnh vực nên cần có sự đóng góp trí tuệ của tập thể trong việc ra quyết định.
– Cơ quan HCNN hoạt động theo chế độ thủ trưởng 1 người: là các cơ quan HCNN có thẩm quyền chuyên môn.

Câu 11. Thẩm quyền quản lý KTTC của các cơ quan HCNN 

Theo hiến pháp năm 1992, ở nước ta có các loại cơ quan trong bộ máy nhà nước sau đây:
     – Các cơ quan quyền lực nhà nước (quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương)
    – Các cơ quan hành chính nhà nước gồm: Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND.
    – Các cơ quan xét xử (Toà án nhân dân tối cao, Toà án quân sự, các Toà án nhân dân địa phương, Toà án đặc biệt và các Toà án khác do luật định).
    – Các cơ quan kiểm sát (Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát quân sự, Viện Kiển sát nhân dân địa phương)
Chủ tịch nước là một chức vụ nhà nước, một cơ quan đặc biệt thể hiện sự thống nhất của quyền lực, có những hoạt động thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, nên khống xếp vào bất kỳ một loại cơ quan nào.
Tất cả các cơ quan nhà nước tạo thành bộ máy nhà nước. Nhưng bộ máy nhà nước không phải là một tập hợp đơn giản các cơ quan nhà nước mà là một hệ thống thống nhất các cơ quan có mối liên hệ ràng buộc qua lại chặt chẽ với nhau vận hành theo một cơ chế đồng bộ.
Quốc hội
Vị trí của Quốc hội trong bộ máy nhà nước được ghi nhận trong Hiến pháp. Điều 83, Hiến pháp 1992 ghi nhận: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất  của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Quốc hội do cử tri cả nước bầu ra theo chế độ bầu cử phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội có các chức năng sau:
– Lập hiến và lập pháp: Lập hiến là làm ra hiến pháp và sửa đổi hiến pháp, lập pháp là làm luật và sửa đổi luật.
– Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế-xã hội quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
– Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước
Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ quốc hội. Khi cần thiết, Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ, Chủ tịch nước có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn mười ngày kể từ ngày pháp lệnh được thông qua; nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban Thường vụ quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất tri, thì Chủ tịch nước trình quốc Hội quyết định tại kỳ họp gần nhất.
Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu miễn nhiệm, bổ nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Căn cứ vào Nghị quyết của quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễm nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.
Chủ tịch nước công bố hiến pháp, luật, pháp lệnh. Căn cứ vào Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, ban bố tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể hợp được, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương.
Nhiệm vụ, quyền hạn về những công việc do Chủ tịch nước tự quyết định như: Chủ tịch nước thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; quyết định phong hàm cấp sĩ quan cấp cao trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp đại sứ, những hàm cấp nhà nước trong các lĩnh vực khác; quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, giải thưởng nhà nước và danh hiệu vinh dự nhà nước. Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đặc sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; tiến hành đàm phán, ký kết Điều ước quốc tế nhân danh nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu nhà nước khác; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế đã trực tiếp ký; quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập Điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định. Để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định…
Chính phủ có nhiệm vụ và quyền hạn.
– Lãnh đạo công tác của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, xây dựng và kiện toàn hệ thống thống nhất bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ viên chức nhà nước;
– Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân, tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục. Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân;
– Trình dự án luật, pháp lệnh và  các dự án khác trước Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
– Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân, phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, các dịch vụ công; quản lý và bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia.
– Thi hành những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình, bảo vệ tài sản lợi ích của Nhà nước và  của xã hội, bảo vệ môi trường.
– Củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và mọi biện pháp cần thiết khác để bảo vệ đất nước.
– Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước; công tác thanh tra và kiểm tra Nhà nuớc, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
– Thống nhất quản lý công tác đối ngoại; đàm phán, ký kết Điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp do Chủ tịch nước ký với người đứng đầu nhà nước khác; đàm phán, ký, phê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế nhân danh  Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài.
– Thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo;
– Quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
– Phối hợp với uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương của các đoàn thể nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tạo điều kiện để các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả.
Bộ, Cơ quan nganh Bộ.
Bộ, cơ quan ngang Bộ (gọi chung là Bộ) gồm hai loại: Bộ quản lý theo ngành, Bộ quản lý đối với lĩnh vực (Bộ quản lý chức năng hay Bộ quản lý liên ngành).
Bộ quản lý ngành là cơ quan của Chính phủ có chức năng quản lý những ngành kinh tế, kỹ thuật, văn hoá, xã hội nhất định (như nông nghiệp, công thương, giao thông vận tải, xây dựng, văn hoá, giáo dục, y tế…)Bộ quản lý ngành có chức năng, quyền hạn, lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện các cơ quan, đơn vị hành chính-sự nghiệp, kinh doanh do mình quản lý về mặt nhà nước.
Bộ quản lý theo lĩnh vực là cơ quan của Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước theo từng lĩnh vực (kế hoạch, tài chính, khoa học-công nghệ, môi trường, lao động, tổ chức và công vụ…) liên quan tới hoạt động của tất cả các Bộ, các ngành, các cấp, các cơ quan nhà nước, tổ chức và công dân. Bộ quản lý theo lĩnh vực có nhiệm vụ giúp Chính phủ nghiên cứu và xây dựng chiến lược kinh tế-xã hội chung; xây dựng các dự án kế hoạch tổng hợp và cân đối liên ngành; xây dựng các quy định, chính sách, chế độ chung tham mưu cho Chính phủ, hoặc mình ban hành những văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực mình phụ trách, hướng dẫn các cơ quan nhà nước và các tổ chức kinh tế, văn hoá, xã hội thi hành; kiểm tra và bảo đảm sự chấp hành thống nhất pháp luật của Nhà nước trong hoạt động của các Bộ và các cấp về lĩnh vực mình quản lý, đồng thời có trách nhiệm phục vụ và tạo điều kiện thuận lợi cho Bộ quản lý ngành hoàn thành nhiệm vụ. Bộ quản lý theo lĩnh vực chỉ quản lý một mặt hoạt động nào đó có liên quan tới hoạt động của các Bộ, các ngành, các cấp chính quyển, cơ quan, tổ chức. Vì vậy, chỉ có quyền kiểm tra về mặt hoạt động thuộc lĩnh vực do mình quản lý, không can thiệp vào những mặt hoạt động khác của các cơ quan, tổ chức đó.
Hội đồng nhân dân
Là một thiết chế hoạt động có chức năng quản lý nhà nước ở địa phương “căn cứ vào hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân ra Nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh hiến pháp và pháp luật ở địa phương và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách về quốc phòng, an ninh ở địa phương; về biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ mà cấp trên giao cho, làm tròn nghĩa vụ đối với cả nước “ (Điều 120 Hiến pháp 1992).
Hiến pháp và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân quy định nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng nhân dân từng cấp. Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa và chống các biểu hiện quan liêu, vô trách nhiệm, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác trong cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước và trong bộ máy chính quyền địa phương.
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cấp mình và xuất phát từ lợi ích chung của đất nước; của nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp để xây dựng và phát triển địa phương về mọi mặt kinh tế, văn hoá-xã hội, y tế, giáo dục…,làm tròn nghĩa vụ của địa phương với cả nước.
Uỷ ban nhân dân
– Tuyên truyền giáo dục pháp luật, kiểm tra việc chấp hành Hiếp pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp trong cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ  chức xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân và công dân ở địa phương.
– Bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang và xây dựng quốc phòng toàn dân…quản lý hộ khẩu, hộ tịch ở địa phương, việc cư trú, đi lại của người nước ngoài ở địa phương;
– Phòng chống thiên tai, bảo vệ tài sản của nhà nước và của công dân, chống tham nhũng, buôn lậu, làm hàng giả và các tệ nạn xã hội khác;
– Quản lý tổ chức, biên chế, lao động, tiền lương, đào tạo cán bộ, công chức, bảo hiểm xã hội;
– Tổ chức và chỉ đạo công tác thi hành án ở địa phương;
– Tổ chức thực hiện việc thu, chi ngân sách của địa phương, phối hợp các cơ quan hữu quan để đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kip thời các loại thuế của các khoản thu khác ở địa phương.
Ngoài ra, Uỷ ban nhân dân còn có nhiệm vụ quản lý địa giới đơn vị hành chính ở địa phương; phối hợp với thường trực Hội đồng nhân dân và các Ban của Hội đồng nhân dân cùng cấp chuẩn bị nội dung các kỳ họp của Hội đồng nhân dân, xây dựng đề án trình Hội đồng nhân dân xét và quyết định.
Toà án nhân dân
Cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có Toà án nhân dân tối cao, các toà án nhân dân địa phương, các toà án quân sự và các toà án khác do luật định. Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập toà án đặc biệt.
Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền giám đốc việc xét xử của tòa án nhân dân địa phương và các toà án quân sự, giám đốc việc xét xử của toà án đặc biệt và các toà án khác; trừ trường hợp Quốc hội quy định khác khi thành lập toà án đó. Nhiệm vụ, quyền hạn của toà án nhân dân tối cao được quy định tại Điều 19, 20 Luật Tổ chức toà án nhân dân năm 2002.
Toà án nhân dân các cấp có chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình, hành chính.
Viện kiểm sát nhân dân
Trong bộ máy nhà nước, Viện kiểm sát là cơ quan có những đặc điểm, đặc thù so với các cơ quan khác của nhà nước. Viện kiểm sát được tổ chức thành một hệ thống thống nhất, nghiêm ngặt, làm việc theo chế độ thủ trưởng. Viện Kiểm sát do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện Kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định.
Viện kiểm sát thực hiện chức năng:
– Thực hành quyền công tố;
– Kiểm sát các hoạt động tư pháp

Câu 13. Sự cần thiết phải cải cách bộ máy HCNN về KTTC

1. Nhằm khắc phục những nhược điểm của bộ máy HCNN:
– Cơ cấu còn cồng kềnh
– Hoạt động kém hiệu quả
– Biên chế nhiều
– Chi phí quản lý HC lớn
– Đội ngũ CBCC thực hiện công việc quản lý còn hạn chế về trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như đạo đức.
– Sự phân cấp trong quản lý NN chưa quán triệt triệt để nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý NN.
– Tình trạng phân tán, thiếu trật tự kỷ cương trong hệ thống các cơ quan HCNN còn phổ biến.
2. Để đáp ứng thực tiễn của quản lý HCNN
Thực tiễn quản lý NN có nhiều thay đổi chịu tác động của các quy luật phát triển KTXH, tác động của nền KTTT và hội nhập KT quốc tế.

Câu 14. Mục tiêu, phương hướng cải cách bộ máy HCNN

Mục tiêu
– Hướng tới xây dựng bộ máy HCNN về KTTC tinh giảm gọn nhẹ, tổ chức hợp lý, có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn hợp lý, hoạt động có kỷ cương trong khuôn khổ hiến pháp, pháp luật.
– Xây dựng các cơ quan quản lý NN về KTTC hướng tới phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, phát huy hợp lý và hiệu quả, giúp dân bảo đảm công bằng xã hội và văn minh.
Phương hướng
– Xác định lại vị trí, chức năng, quyền hạn của chính phủ, xây dựng mô hình chính phủ văn minh.
– Quy định 1 cách khách quan, khoa học, hợp lý, chặt chẽ các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, cơ quan ngang bộ đặc biệt là cơ quan có thẩm quyền chuyên môn trong quản lý KTTC.
– Có sự phân cấp hợp lý mang tầm vĩ mô do trung ương quyết định tạo thế cho địa phương giải quyết các vấn đề KTTC ở tầm vi mô.
– Xác định địa vị pháp lý HC của UBND xã theo hướng phát triển quyền tự quản đối với các hoạt động quản lý dân cư ở địa phương chủ yếu tập trung ở các vấn đề như xây dựng, kế hoạch tổng thể phát triển KTXH ở địa phương, quản lý hoạt động KT (quản lý đất đai, dân cư).
– Đổi mới, hoàn thiện đội ngũ CBCC quản lý KTTC, chỉ tuyển dụng những công dân có trình độ chuyên môn, có phẩm chất đạo đức vào ngạch công chức NN nói chung và quản lý HC về KT nói riêng.
– Xây dựng chế độ công cụ phù hợp, hiện đại để tạo lập trật tự kỷ cương, kỷ luật chặt chẽ đối với CBCC.

Câu 15. Nguyên tắc xây dựng và thực hiện thủ tục HC

Khái niệm thủ tục HC
Thủ tục HC là trình tự thực hiện thẩm quyền giải quyết công việc trong quản lý HCNN nói chung và quản lý HCNN về KTTC nói riêng.
Nguyên tắc
1. Nguyên tắc pháp chế
– Chỉ có cơ quan NN có thẩm quyền mới có quyết định ra thủ tục HC
– Chỉ có cơ quan tổ chức cá nhân có thẩm quyền mới có quyền thực hiện thủ tục HC và thực hiện trong phạm vi thẩm quyền mà pháp luật quy định.
– Thủ tục HC phải được thực hiện đúng pháp luật.

2. Nguyên tắc khách quan
– Việc được giao thủ tục HC phải xuất phát từ nhu cầu khách quan của hoạt động quản lý nhằm đưa ra quy trình hợp lý mang lại kết quan quản lý cao nhất.
– Khi thực hiện thủ tục HC ở tất cả các khâu, các bước giai đoạn đều phải dựa trên căn cứ khoa học.

3. Nguyên tắc công khai minh bạch
– Trong trường hợp cần thiết NN tạo điều kiện cho những đối tượng thực hiện thủ tục HC đóng góp ý kiến.
– Các thủ tục HC phải được công bố cho người thực hiện thủ tục biết.
– Trong quá trình thực hiện thủ tục HC phải được công khai quá trình thực hiện thủ tục.

4. Nguyên tắc đơn giản, tiết kiệm, nhanh chóng, kịp thời
– Loại bỏ những thủ tục rườm rà chồng chéo dễ bị lợi dụng để tham nhũng, gây khó khăn cho dân.
– Xóa bỏ kịp thời quy định không cần thiết về cấp phép và thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, kiểm dịch, giám định.
– Mẫu hóa thống nhất trong cả nước các loại giấy tờ mà công dân hoặc DN cần phải làm khi có yêu cầu giải quyết các công việc SXKD và đời sống.

5. Nguyên tắc bình đẳng của các bên tham gia thủ tục HC
Bất kỳ thủ tục HC nào cũng có sự tham gia của chủ thể sử dụng quyền lực NN và chủ thế phục tùng quyền lực NN nhưng cả 2 bên tham gia đều bình đẳng.
– Mỗi bên đều có quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định.
– NN đưa ra những bảo đảm như nhau cho các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ.
– Các cơ quan HC phải đáp ứng đề nghị của công dân, tổ chức khi đề nghị của họ đủ điều kiện do pháp luật quy định và phải áp dụng các biện pháp khi cần thiết để bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của dân sự.
– Các chủ thể vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện thủ tục đều phải chịu trách nhiệm pháp lý.

Câu 16. Sự cần thiết cải cách thủ tục HC

Thủ tục HC cần thiết phải cải cách để khắc phục những nhược điểm còn tồn tại của nó:
– Đòi hỏi có nhiều giấy tờ gây phiền hà cho nhân dân nhất là những người ít hiểu biết về quy định của NN.
– Nặng nề nhiều cửa nhiều cấp trung gian không cần thiết, rườm rà, không rõ rang.
– Thiếu thống nhất, tùy tiện thay đổi và thiếu công khai.
– Gây ra những khó khăn không đáng có cho tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện quyền lợi ích và công việc chung gây trở ngại cho việc giao lưu hợp tác nước ngoài.
– Gây ra tệ cửa quyền, nhũng nhiễu, hách dịch, tạo ra tệ giấy tờ trong bộ máy HC và tạo điều kiện cho nạn tham nhũng phát triển làm giảm lòng tin của nhân dân và chính quyền.

Phương hướng cải cách thủ tục HC
– Tiếp tục rà soát toàn bộ các quy định hiện hành về thủ tục HC. Những thủ tục ban hành không đúng thẩm quyền, trái pháp luật hoặc thật sự không cần thiết thì bãi bỏ. Những thủ tục không phù hợp với thực tế thì sửa đổi bổ sung. Những thủ tục được phân tán ở nhiều văn bản thì hợp nhất lại. Các cơ quan NN phải tổ chức tiếp thu ý kiến về những thủ tục lỗi thời, trái pháp luật để xử lý kịp thời.
– Xây dựng các thủ tục HC đơn giản, thống nhất, công khai dễ hiểu dễ thực hiện; xây dựng quy chế hoạt động của cơ quan, quy chế phối hợp giữa các cơ quan theo hướng tăng cường trách nhiệm cá nhân đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan. Giảm dần các đầu nối trung gian, giao cho 1 công việc được giải quyết chủ yếu ở 1 cấp; tiếp tục cải cách thủ tục HC nhằm đảm bảo tính pháp lý hiệu quả, minh bạch và công bằng khi giải quyết thủ tục HC.
– Ban hành cơ chế kiểm tra CBCC; tiếp nhận và giải quyết công việc của dân; xử lý nghiêm người có hành vi sách nhiễu hách dịch vô trách nhiệm; khen thưởng những người hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; mở rộng thực hiện cơ chế mở cửa trong việc giải quyết công việc cá nhân và tổ chức ở các cơ quan HCNN các cấp. Các cơ quan HC các cấp phải tổ chức niêm yết công khai và đầy đủ mọi thủ tục trình tự lệ phí, lịch công tác tại trụ sở làm việc.
– Quy định cụ thể rõ rang trách nhiệm cá nhân khi thi hành công việc.
Cải cách thủ tục HC phải tiến hành đồng thời với cải cách thể chế HC, bộ máy HC, xây dựng quy chế công chức công vụ, bảo đảm bộ máy công chức có năng lực, lương tâm, trách nhiệm.

Câu 17. Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước

Nhà nước có 5 đặc trưng cơ bản:
1. Nhà nước phân chia và quản lý dân cư theo đơn vị hành chính lãnh thổ.
Nhà nước thiết lập quyền lực trên các đơn vị hành chính lãnh thổi, quản lý cư dân theo đơn vị hành chính lãnh thổ mà không phụ thuộc vào huyết thống, giới tính, tôn giáo.v.v…
2.Nhà nước thiết lập quyền lực công để quản lý xã hội và nắm quyền thống trị thông qua việc thành lập bộ máy chuyên là nhiệm vụ quản lý nhà nước và bộ máy chuyên thực hiện cưỡng chế (quân đội, nhà tù, cản sát.v.v…) để duy trì địa vị của giai cấp thống trị. Còn các tổ chức khác trong xã hội không có quyền lực này như tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn, phụ nữ, đoàn thanh niên, Mặt trận Tổ Quốc.v.v…
3. Nhà nước có chủ quyền quốc gia
– Chủ quyền quốc gia thể hiện ở quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình.
– Nhà nước tự quyết định về chính sách đối nội và đối ngoại, không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài
4. Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện quản lý buộc các thành viên trong xã hội phải tuân theo:
– Nhà nước ban hành pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế.
– Thông qua pháp luật, ý chí của nhà nước trở thành ý chí của toàn xã hội, buộc mọi cơ quan, tổ chức, phải tuân theo.
– Trong xã hội, chỉ có Nhà nước mới có quyền ban hành luật và áp dụng pháp luật.
5. Nhà nước quy định và thực hiện thu thuế dưới hình thức bắt buộc
– Để duy trì bộ máy nhà nước.
– Bảo đảm cho sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng,
– Giải quyết các công việc chung của xã hội
Qua năm đặc trương trên nhằm phân biệt nhà nước với các tổ chức chính trị, chính trị xã hội khác (Đảng phái chính trị, Đoàn thanh niên, hiệp hội.v.v…), đồng thời cũng là để phân biệt với các tổ chức thị tộc (trong xã hội công xã nguyên thuỷ). Qua đó cho thấy vai trò to lớn của Nhà nước trong hệ thống chính trị mà các tổ chức khác không có.

Câu 18. Khái niệm và bản chất của Nhà nước

Khái niệm Nhà nước:
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy chuyên trách để cưỡng chế và quản lý xã hội nhằm thực hiện và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp đối kháng, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Bản chất của Nhà nước:
Theo quan điểm lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà nước xét về bản chất, là một hiện tượng thuộc thượng tầng kiến trúc, tồn tại dựa trên một cơ sở kinh tế nhất định; là công cụ để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, là một tổ chức quyền lực đặc biệt, có bộ máy chuyên trách để cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý nhằm thực hiện và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp đối kháng.
Bản chất của nhà nước thể hiện dưới hai đặc tính cơ bản:
Thứ nhất, là tính giai cấp của Nhà nước: thể hiện ở chỗ nhà nước là công cụ thống trị trong xã hội để thực hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, củng cố và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Bản chất của nhà nước chỉ rõ nhà nước đó là của ai, do giai cấp nào tổ chức và lãnh đạo, phục vụ lợi ích của giai cấp nào?
Trong xã hội bóc lột (xã hội chiếm hữu nô lê, xã hội phong kiến, xã hội tư sản) nhà nước đều có bản chất chung là thiết chế bộ máy để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc lột trên 3 mặt: Kinh tế, chính trị và tư tưởng.
Vì vậy, nhà nước tồn tại với hai tư cách:
Một là bộ máy duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác.
Hai là tổ chức quyền lực công – tức là nhà nước vừa là người bảo vệ pháp luật vừa là người bảo đảm các quyền của công dân được thực thi.
Thứ hai là tính xã hội hay còn gọi là vai trò kinh tế – xã hội của Nhà nước.
Trong nhà nước, giai cấp thống trị chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các tầng lớp giai cấp khác, do vậy ngoài tư cách là công cụ duy trì sự thống trị, nhà nước còn là công cụ để bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội.
Ví dụ: Nhà nước giải quyểt các vấn đề nảy sinh từ đời sống xã hội như: đói nghèo, bệnh tật, chiến tranh, các vấn đề về môi trường, phòng chống thiên tai, địch hoạ, về dân tộc, tôn giáo và các chính sách xã hội khác.v.v…
Bảo đảm trật tự chung- bảo đảm các giá trị chung của xã hội để tồn tại và phát triển
Như vậy, vai trò kinh tế – xã hội là thuộc tính khách quan, phổ biến của Nhà nước. Tuy nhiên, mức độ biểu hiện cụ thể và thực hiện vai trò đó không giống nhau giữa các nhà nước khác nhau. Vai trò và phạm vi hoạt động của nhà nước phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển cũng như đặc điểm của mỗi nhà nước, song phải luôn tính đến hiệu quả hoạt động của nhà nước.
Để hoạt động có hiệu quả, nhà nước phải chọn lĩnh vực hoạt động nào là cơ bản, cần thiết để tác động. Bởi nếu không có sự quản lý của nhà nước sẽ mang lại hậu quả xấu cho xã hội. Vì vậy, vai trò của nhà nước chỉ nên hoạt động và quản lý trên năm lĩnh vực sau:
– Ban hành pháp luật và có các biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật.
– Ban hành các chính sách kinh tế vĩ mô,điều tiết, điều phối các chính sách kinh tế – xã hội, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường.
– Đầu tư, cung cấp hàng hoá dịch vụ xã hội cơ bản (cấp phép, kiểm dịch, kiểm định, giám sát, kiểm tra các lĩnh vực.v.v…)
– Giữ vai trò là người bảo vệ những nhóm người yếu thế và dễ bị tổn thương trong xã hội (người già, trẻ em, người tàn tật.v.v…)
– Hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, giao thông; phòng chống thiên tai, bão lụt.v.v…
– Ngày nay các nước trên thế giới đều chú ý quan tâm nhiều đến vai trò xã hội của nhà nước vì sự tồn vong của cộng đồng xã hội.

Câu 19. Tại sao trong quản lý hành chính NN cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa PP giáo dục tư tưởng đạo đức và PP Hành chính

Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa PP thuyết phục, giáo dục và phương pháp hành chính để đảm bảo sự hài hòa trong quản lí và đạt hiệu quả cao trong giải quyết vấn đề. Phương pháp hành chính là phương pháp mệnh lệnh, quyền lực đơn phương của chủ thể quản lí áp đặt lên đối tượng quản lý và buộc đối tượng quản lí phải tuân thủ,thực hiện mệnh lệnh đó còn phương pháp thuyết phục, giáo dục lại góp phần tạo ra sự mềm dẻo, linh hoạt, mang tính “công tác tư tưởng” để tác động vào đối tượng quản lí.Trong quản lí hành chính muốn đạt hiệu quả cao thì cần thiết có sự phối hợp chặt chẽ,hài hòa giữa hai phương pháp đó.

Câu 20. Các biện pháp cưỡng chế hành chính

Theo quy định của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 của UBTVQH, cưỡng chế hành chính bao gồm các biện pháp sau đây:
– Phòng ngừa hành chính: kiểm tra hành chính như: kiểm tra các loại giấy tờ: hộ khẩu, CMND, giấy phép, giấy chứng nhận hành nghề… Ngăn cấm hành chính như: không cho phép xe xích lô đạp, xe ba gác chạy vào một số tuyến đường trong nội thành hoặc không cho gia súc, gia cầm chưa qua kiểm dịch vào Thành phố…
– Ngăn chặn hành chính: tạm giữ người theo thủ tục hành chính, khám người, đồ vật, phương tiện vận tải…
Xử lý vi phạm hành chính: xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác.

Câu 21. Vai trò của hành chính nhà nước trong quản lý kinh tế. Phân biệt thể chế NN thời kỳ tập trung bao cấp và thời kỳ Kinh tế thị trường

Vai trò HCNN trong quản lý KT
– Định hướng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.
– Điều hoà có tính chất liên ngành, liên vùng.
– Hỗ trợ doanh nhân, doanh nghiệp.
– Làm trọng tài, điều chỉnh các quan hệ kinh tế – xã hội
– Kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Phân biệt thể chế Nhà nước thời kỳ tập trung bao cấp và thời kỳ kinh tế thị trường:
– Thời bao cấp không dựa vào các quy luật kinh tế khách quan còn thời kinh tế thị trường chủ yếu dựa vào các quy luật kinh tế khách quan.
– Thời bao cấp Nhà nước can thiệp trực tiếp vào các hoạt động sản xuất kinh doanh còn thời kinh tế thị trường Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thời bao cấp quản lý hành chính Nhà nước chủ yếu tập trung vào thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể còn thời kinh tế thị trường quản lý hành chính nhà nước nhằm phát huy vai trò của mọi thành phần kinh tế.

Câu 22. Nội dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước

1) Xây dựng chiến lược, phương hướng, qui hoạch và kế hoạch phát triển hệ thống Doanh nghiệp Nhà nước.
2) Hoàn chỉnh bổ sung, đổi mới tổ chức quản lý đối với khối Doanh nghiệp Nhà nước cho phù hợp với sự phát triển của khối này và yêu cầu đặt ra đối với khối Doanh nghiệp Nhà nước.
3) Tổ chức đầu tư xây dựng Doanh nghiệp Nhà nước theo kế hoạch dự án đã lập.
4) Bố trí nhân sự cho bộ máy quản lý các Doanh nghiệp Nhà nước.
5) Khai thác sử dụng các Doanh nghiệp Nhà nước vào việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của nhà nước.
6) Quản lý vốn và lãi của vốn nhà nước trong các Doanh nghiệp Nhà nước nói riêng và trong tất cả các doanh nghiệp có vốn nhà nước nói chung.

Câu 23. Yêu cầu chung về Văn bản và thể thức văn bản khi soạn thảo các văn bản qui phạm pháp luật

1- Yêu cầu về nội dung :
– Tính mục đích, tính khoa học, tính dân chúng, tính công quyền, tính khả thi.
2- Yêu cầu về thể thức văn bản :
a) Quốc hiệu.
b) Tên cơ quan ban hành
c) Số và ký hiệu, năm ban hành (nếu là văn bản Qui phạm pháp luật)
d) Địa danh, ngày, tháng năm
e) Tên loại VB hoặc nơi để gửi..
f) Trích yếu văn bản.
g) Nội dung
h) Thẩm quyền ký và con dấu.
i) Nơi nhận

Câu 24.Tại sao nói nguyên tắc pháp chế XHCN phản ánh bản chất NN XHCN. Liên hệ với NN CHXHCN VN.

         + Bản chất NN XHCN :
         – Xét về tính giai cấp (tính chính trị): NN XHCN mang bản chất giai cấp công nhân.
         – Xét về tính xã hội (tính dân chủ): Nhà nước là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Tính chính trị và dân chủ thống nhất với nhau.
        + Nguyên tắc pháp chế XHCN: là nguyên tắc cơ bản của NN XHCN, phản ánh bản chất NN XHCN vì nguyên tắc NN XHCN phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, vì pháp luật, bảo đảm trật tự pháp luật, mà pháp luật XHCN mang bản chất giai cấp công nhân (thể chế hóa đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản để nhân dân thực hiện, pháp luật XHCN được xây dựng trên quan điểm, tư tưởng của giai cấp công nhân, dó là CN Mác – Lênin). Đồng thời pháp luật XHCN là pháp luật của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, pháp luật XHCN thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân. Nhà nước phải tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật vì pháp luật là theo ý chí của nhân dân, vì lợi ích của nhân dân pháp chế XHCN đòi hỏi.
       + Liên hệ với NN CHXHCN Việt Nam:
Bản chất NN CHXHCN Việt Nam được quy định tại Điều 2, Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung 2001): “NN CHXHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân…”. Nhà nước ta đề cao vai trò của pháp luật, tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật, vì pháp luật (bảo đảm trật tự pháp luật), mà pháp luật nước ta do nhân dân xây dựng lên, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bảo vệ lợi ích cuả nhân dân. Do đó, nguyên tắc pháp chế XHCN phản ánh bản chất nhà nước ta.

Câu 25. Sự khác nhau giữa tranh chấp hành chính và tranh chấp dân sự

– Về chủ thể, tranh chấp dân sự xảy ra giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tổ chức, còn tranh chấp hành chính là tranh chấp giữa cá nhân, tổ chức với cơ quan hành chính nhà nước.
– Về mặt thủ tục: thủ tục tố tụng dân sự phức tạp hơn trong khi thủ tục tố tụng hành chính ngắn gọn hơn (tố tụng dân sự nhiều khi phải ra tòa án còn tố tụng hành chính thì không ).
– Về nội dung: tranh chấp dân sự chủ yếu là về các quyền và nghĩa vụ liên quan đến quan hệ dân sự còn tranh chấp hành chính chủ yếu là về các quyền và nghĩa vụ liên quan đến các quan hệ hành chính. Nội dung tranh chấp dân sự rộng hơn nội dung tranh chấp hành chính.

Câu 26. Đặc điểm của thẩm quyền hành chính nhà nước

Thẩm quyền HCNN là một khái niệm dành để chỉ thẩm quyền của hệ thống các cơ quan HCNN. Vì vậy thẩm quyền HCNN có 2 đặc điểm sau :
– TQHCNN là một bộ phận cấu thành của thẩm quyền NN, được đặc trưng bởi quyền lực nhà nước.
– TQHCNN tạo thành một hệ thống thứ bậc, ổn định, liên tục nhờ quan hệ “quyền lực – phục tùng” nghĩa là có sự chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, thanh tra theo hệ thống thẩm quyền trực thuộc ngang, dọc.

 

Có thể bạn quan tâm:

3 thoughts on “Bộ 21 câu hỏi đề cương hành chính nhà nước- ôn thi công chức thuế

  1. Pingback: orissa india magic mushrooms

  2. Pingback: http://pro-spray.pl/fr/przelacz_culture?jezyk=en&redirect=https://gasdank.com/

  3. Pingback: trustbet

Leave a Reply

(function($) { $(document).ready(function() { $('header .ux-search-submit').click(function() { console.log('Moew'); $('header form.search_google').submit(); }); }); })(jQuery);