Tài liệu công chức 2020 -Chuyên đề: Một số vấn đề về công tác xây dựng Đảng và công tác cán bộ hiện nay – Phần 3 : Một số vấn đề về cán bộ và công tác cán bộ.
Cán bộ và công tác cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết định sự thành bại của cách mạng; là “then chốt” của nhiệm vụ “then chốt”. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “có cán bộ tốt, việc gì cũng xong”, “muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém” [1].
Nội dung chính:
MỘT SỐ KẾT QUẢ VỀ THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC CÁN BỘ
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Chiến lược cán bộ đã xác định phương hướng cơ bản, các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và những giải pháp lớn về xây dựng đội ngũ cán bộ đến năm 2020.
Sau hơn 20 năm thực hiện Chiến lược cán bộ, Hội nghị Trung ương 7 (khoá XII), Trung ương trên cơ sở đánh giá tình hình đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ, đã ban hành Nghị quyết về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Có thể khái quát một số nét về tình hình đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ sau hơn 20 năm thực hiện Chiến lược cán bộ như sau:
Đội ngũ cán bộ
1.1. Ưu điểm và kết quả
Qua hơn 20 năm thực hiện Chiến lược cán bộ, đội ngũ cán bộ các cấp đã có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng lên; cơ cấu độ tuổi, giới tính, dân tộc, ngành nghề, lĩnh vực công táccó sự cân đối, hợp lý hơn. Số cán bộ có trình độ đại học, sau đại học tăng nhanh. Trình độ, năng lực và kinh nghiệm thực tiễn có nhiều tiến bộ. Số lượng cán bộ được quy hoạch khá dồi dào, bảo đảm sự chuyển tiếp giữa các thế hệ.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao; nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín; cán bộ cấp chiến lượccó bản lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có tư duy đổi mới và tầm nhìn chiến lược, có khả năng hoạch định đường lối và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Hầu hết cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang được rèn luyện, thử thách qua thực tiễn, trung thành với Đảng, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì Tổ quốc. Nhiều cán bộ khoa học tâm huyết, say mê nghiên cứu, có đóng góp tích cực cho đất nước. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
1.2. Hạn chế, khuyết điểm
Đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị đông nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ xảy ra ở nhiều nơi. Cơ cấu giữa các ngành nghề, lĩnh vựcchưa thật hợp lý; thiếu liên thông giữa các cấp, các ngành; tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu sốchưa đạt yêu cầu đề ra. Độ tuổi bình quân của cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở một số ban, bộ, ngành, địa phương còn cao. Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực, tỷ lệ cán bộ nghiên cứu khoa học trên tổng dân số còn thấp.
Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém, năng suất lao động, hiệu quả làm việc thấp[2]; nhiều cán bộ thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn hạn chế, bất cập. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, tham nhũng, tiêu cực, gây lãng phí, lợi ích nhóm, một số bị kỷ luật Đảng, bị xử lý theo pháp luật. Không ít cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước thiếu tính Đảng, lợi dụng sơ hở, cố ý làm trái, trục lợi, làm thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp… chậm được ngăn chặn, đẩy lùi.
Công tác cán bộ
2.1. Ưu điểm và kết quả
Công tác cán bộ ngày càng đi vào nền nếp, bám sát các quan điểm, nguyên tắc của Đảng và đạt được những kết quả quan trọng. Đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, luật, nghị định và sửa đổi, bổ sung nhiều quy định, quy chế[3] để thực hiện. Các quy trình trong công tác cán bộ có nhiều đổi mới[4], ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, công khai, minh bạch và dân chủ hơn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng và cập nhật kiến thức mới được quan tâm hơn, từng bước gắn với chức danh, với quy hoạch và sử dụng cán bộ. Chủ trương luân chuyển kết hợp với bố trí một số chức danh lãnh đạo không là người địa phương đạt được kết quả bước đầu. Công tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ chính trị nội bộ đã được coi trọng hơn; kỷ cương, kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước được tăng cường. Việc xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi phạm đã góp phần ngăn chặn tiêu cực, làm trong sạch một bước đội ngũ cán bộ.
2.2. Hạn chế, bất cập
Một số nội dung trong các nghị quyết, kết luận của Trung ương chậm được cụ thể hóa[5], chưa sát thực tế, thiếu đồng bộ, thống nhất, liên thông. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc việc thực hiện chưa kịp thời, thiếu quyết liệt, hiệu quả thấp. Nguyên tắc tập trung dân chủ có nơi, có lúc thực hiện chưa nghiêm.
Công tác cán bộ còn nhiều hạn chế, việc thực hiện một số nội dung còn hình thức. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, nhìn chung chưa phản ánh đúng thực chất; phương pháp, quy trình còn bất cập; việc lượng hóa các tiêu chí đánh giá chưa sát, chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ thể. Quy hoạch cán bộ thiếu tính tổng thể, liên thông giữa các cấp, các ngành, các địa phương; chưa bảo đảm phương châm “động” và “mở”, còn dàn trải, khép kín, có nơi quá cứng nhắc, có nơi lại lỏng lẻo, chủ yếu dựa vào độ tuổi. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn với quy hoạch và theo chức danh. Luân chuyển cán bộ còn một số bất cập, nhưng chậm được khắc phục; chủ trương bố trí một số chức danh lãnh đạo cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương[6] thực hiện chưa nghiêm, chưa đạt yêu cầu.
Việc sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử vẫn còn tình trạng đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc. Tình trạng bổ nhiệm không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân cán bộ lãnh đạo xảy ra ở một số nơi gây bức xúc trong dư luận. Công tác tuyển dụng còn nhiều hạn chế, chất lượng chưa đồng đều, có nơi còn để xảy ra sai phạm, tiêu cực. Chủ trương thu hút nhân tàichậm được cụ thể hóa, hiệu quả thấp; kết quả thu hút trí thức trẻ và người có trình độ cao chưa đạt yêu cầu. Chính sách tiền lương, nhà ở, thi đua, khen thưởng chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc.
Phân cấp quản lý cán bộ chưa theo kịp tình hình[7]. Việc chỉ đạo, triển khai một số chủ trương thí điểm[8] chưa quyết liệt, thiếu nhất quán, tổ chức thực hiện chưa đồng bộ, chậm sơ kết, tổng kết. Việc kiểm tra, giám sát chưa thường xuyên, thiếu chủ động, còn nặng về kiểm tra, xử lý vi phạm, thiếu giải pháp hiệu quả để phòng ngừa, ngăn chặn sai phạm; kiểm tra theo chuyên đề, chuyên ngành còn hạn chế.
Đầu tư xây dựng đội ngũ làm công tác cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ. Tổ chức bộ máy cơ quan tham mưu còn nhiều đầu mối, chức năng, nhiệm vụ chưa thật hợp lý. Phẩm chất, năng lực và uy tín của không ít cán bộ làm công tác cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu. Chậm sơ kết, tổng kết thực tiễn; thiếu nghiên cứu cơ bản và phát triển lý luận về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ.
Nguyên nhân
3.1. Nguyên nhân của ưu điểm
(1) Có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của các cấp ủy, tổ chức đảng và những tác động tích cực mà công cuộc đổi mới mang lại.
(2) Thường xuyên bám sát các quan điểm, nguyên tắc của Đảng, pháp luật của Nhà nước; kế thừa, phát huy những bài học qua các thời kỳ và kinh nghiệm của thế giới. (3) Đa số cán bộ được đào tạo cơ bản và được rèn luyện, trưởng thành trong thực tiễn; có ý thức phấn đấu vươn lên, luôn phát huy truyền thống tốt đẹp của Đảng, của dân tộc. (4) Dân chủ ngày càng được mở rộng; có sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, của nhân dân và các cơ quan truyền thông.
3.2. Nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm, bất cập
(1) Nhận thức của một số cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cán bộ, đảng viên về cán bộ và công tác cán bộ chưa thật sự sâu sắc, toàn diện. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng chưa được coi trọng đúng mức.
(2) Công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện một số nội dung nêu trong nghị quyết, kết luận thiếu quyết liệt, chưa thường xuyên, chậm thể chế hóa, cụ thể hóa; việc tổ chức thực hiện của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa nghiêm[9].
(3) Một số nội dung trong công tác cán bộ chậm được đổi mới. Chưa có cơ chế hiệu quả để đánh giá đúng cán bộ, để tạo động lực, bảo vệ cán bộ và thu hút, trọng dụng nhân tài; chính sách cán bộ chậm đổi mới, chưa phù hợp, chưa phát huy tốt tiềm năng của cán bộ. Công tác quản lý cán bộ có nơi, có lúc bị buông lỏng; chưa có cơ chế sàng lọc chính xác, thay thế kịp thời những cán bộ yếu kém, uy tín thấp, không đủ sức khỏe.
(4) Phân công, phân cấp, phân quyền chưa gắn với ràng buộc trách nhiệm, với tăng cường kiểm tra, giám sát và kiểm soát chặt chẽ quyền lực; chưa có biện pháp hiệu quả để kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền và những tiêu cực trong công tác cán bộ. Thiếu chặt chẽ, hiệu quả trong phối hợp kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ chưa được đầu tư, quan tâm đúng mức.
(5) Chưa phát huy hiệu quả vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội; thiếu cơ chế phù hợp để cán bộ, đảng viên gắn bó máu thịt, mật thiết với nhân dân[10]; chưa phát huy có hiệu quả vai trò, trách nhiệm của các cơ quan truyền thông.
(6) Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ chậm được đổi mới. Chưa quan tâm đúng mức xây dựng đội ngũ làm công tác cán bộ. Còn coi nhẹ công tác sơ kết, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học, phát triển lý luận.
Bài học kinh nghiệm
Sau hơn 20 năm thực hiện Chiến lược cán bộ, có thể rút ra mấy bài học quan trọng sau:
(1) Phải nhận thức sâu sắc về công tác cán bộ và nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là người đứng đầu.
(2) Chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống và rèn luyện, thử thách cán bộ qua thực tiễn để nâng cao bản lĩnh chính trị, nhân sinh quan cách mạng.
(3) Quán triệt quan điểm giai cấp, phù hợp với chính sách đại đoàn kết dân tộc; căn cứ vào yêu cầu cách mạng trong từng thời kỳ; phát huy hiệu quả vai trò của nhân dân, các cơ quan truyền thông.
(4) Việc phân cấp, phân quyền đi đôi với kiểm soát quyền lực, tăng cường kiểm tra, giám sát, ràng buộc trách nhiệm.
(5) Siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường để cán bộ phát huy sáng tạo và có cơ chế bảo vệ cán bộ.
(6) Đánh giá, bố trí đúng cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược và bí thư cấp ủy, người đứng đầu các cấp.
Tóm lại, sự trưởng thành, phát triển của đội ngũ cán bộ là nhân tố then chốt, quyết định những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, để đất nước có được cơ đồ, vị thế như ngày nay. Song, những khuyết điểm, yếu kém của một bộ phận cán bộ và những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ cũng là một trong những nguyên nhân làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và chậm so với một số nước trong khu vực, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Tình hình đó đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt để đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ và tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ.
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ TRONG THỜI GIAN TỚI
Dự báo tình hình
Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác, hội nhập và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, nhưng trong quan hệ quốc tế vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh, trong đối tác có đối tượng, trong đối tượng có đối tác; các mối đe dọa truyền thống, phi truyền thống và biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt. Sự bùng nổ của khoa học – công nghệ, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế số, kinh tế tri thức và xu hướng quốc tế hóa nguồn nhân lực vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với nước ta. Ở trong nước, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, sức mạnh tổng hợp và uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, tạo tiền đề cho sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước. Tuy nhiên, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, có tác động mạnh mẽ, toàn diện đến công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ.
Quan điểm
– Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu ” “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững.
– Thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Chuẩn hoá, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường, Điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm.
– Tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi mới công tác cán bộ phù hợp với tình hình thực tiễn. Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới; thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân; đặt trong tổng thể của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, thu hút, trọng dụng nhân tài.
– Quán triệt nguyên tắc về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ. Xử lý hài hoà, hợp lý mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, trong đó tiêu chuẩn là chính; giữa xây và chống, trong đó xây là nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên; giữa đức và tài, trong đó đức là gốc; giữa tính phổ biến và đặc thù; giữa kế thừa, đổi mới và ổn định, phát triển; giữa thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể.
– Xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là của các cấp ủy, tổ chức đảng mà trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham mưu của Đảng, trong đó cơ quan tổ chức, cán bộ là nòng cốt. Phát huy mạnh mẽ vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và cơ quan truyền thông, báo chí trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân; phải thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ.
Mục tiêu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ, đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
3.2. Mục tiêu cụ thể:
– Đến năm 2020: (1) Thể chế hoá, cụ thể hoá Nghị quyết thành các quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ; (2) Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực; kiên quyết xoá bỏ tệ chạy chức, chạy quyền; ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong cán bộ, đảng viên; (3) Đẩy mạnh thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương; (4) Hoàn thành việc xây dựng vị trí việc làm và rà soát, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ các cấp gắn với kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
– Đến năm 2025: (1) Tiếp tục hoàn thiện, chuẩn hoá, đồng bộ các quy định, quy chế, quy trình về công tác cán bộ; (2) Cơ bản bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh không là người địa phương và hoàn thành ở cấp huyện; đồng thời khuyến khích thực hiện đối với các chức danh khác; (3) Xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và khung năng lực theo quy định.
– Đến năm 2030: (1) Xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp chuyên nghiệp, có chất lượng cao, có số lượng, cơ cấu hợp lý, bảo đảm sự chuyển giao thế hệ một cách vững vàng; (2) Cơ bản xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ. Cụ thể là:
+ Đối với cán bộ cấp chiến lược: thực sự tiêu biểu về lập trường tư tưởng, phẩm chất, năng lực và uy tín; trên 15% dưới 45 tuổi; từ 50-60% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế[11] (đối với quân đội, công an có quy định riêng của Bộ Chính trị).
+ Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tổng cục, cục, vụ, phòng và tương đương ở Trung ương: Từ 20 – 25% dưới 40 tuổi; từ 50 – 60% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
+ Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý ở địa phương: Từ 15 – 20% cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh dưới 40 tuổi, từ 25 – 35% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; từ 20 – 25% cán bộ lãnh đạo chủ chốt và ủy viên ban thường vụ cấp ủy cấp huyện dưới 40 tuổi. Đối với cán bộ chuyên trách cấp xã: 100% có trình độ cao đẳng, đại học và được chuẩn hoá về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng công tác.
+ Đối với cán bộ lãnh đạo, chỉ huy quân đội, công an: Tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, sức chiến đấu cao; có số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; từ 20 – 30% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
+ Đối với đội ngũ cán bộ khoa học, chuyên gia: Đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Hình thành đội ngũ chuyên gia đầu ngành, các nhà khoa học ở những lĩnh vực trọng điểm, có thế mạnh, đạt trình độ ngang tầm khu vực và thế giới. Số cán bộ khoa học đạt ít nhất 11 người trên 1 vạn dân.
+ Đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước: Nâng cao tính Đảng và ý thức tuân thủ pháp luật; sản xuất kinh doanh hiệu quả; từ 70 – 80% có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
Phải có cán bộ nữ trong cơ cấu lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành. Tỷ lệ nữ cấp ủy viên các cấp đạt từ 20-25%[12]; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp đạt trên 35%. Ở những địa bàn có đồng bào dân tộc thiểu số, phải có tỷ lệ cán bộ lãnh đạo là người dân tộc phù hợp với cơ cấu dân cư.
Nhiệm vụ, giải pháp
4.1. Nâng cao nhận thức, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên
(1) Quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ; kiên quyết đấu tranh với những quan điểm lệch lạc, sai trái, luận điệu xuyên tạc; mở rộng các hình thức tuyên truyền, nhân rộng những điển hình tiên tiến.
(2) Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ trẻ được đào tạo ở nước ngoài; chú trọng nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc; kết hợp đào tạo, rèn luyện trong thực tiễn với học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện nghiêm chế độ học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị và cập nhật kiến thức mới[13].
4.2. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ
(1) Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, triển khai đồng bộ, thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc thực hiện theo quy định, ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả những tiêu cực trong công tác cán bộ.
(2) Thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác cán bộ theo hướng: bảo đảm đồng bộ, liên thông và phù hợp với thực tế; phân cấp[14], phân quyền gắn với ràng buộc trách nhiệm và kiểm soát chặt chẽ quyền lực; siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, cơ chế thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển và bảo vệ cán bộ.
(3) Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: xuyên suốt[15], liên tục[16], đa chiều[17], theo tiêu chí[18], bằng sản phẩm[19], thông qua khảo sát[20], công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị.
(4) Tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ: (i) Thống nhất việc kiểm định chất lượng đầu vào công chức[21], làm cơ sở cho các địa phương, cơ quan, đơn vị lựa chọn, sát hạch, tuyển dụng theo yêu cầu, nhiệm vụ của mình. (ii) Xây dựng Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và học tập ngoại ngữ[22]. (iii) Gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh[23] và thực hiện luân chuyển để rèn luyện cán bộ qua thực tiễn. (iv) Thực hiện nhất quán việc bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương, khuyến khích thực hiện đối với các chức danh khác, nhất là chức danh chủ tịch ủy ban nhân dân (UBND). (v) Quy định khung cơ chế, chính sách ưu đãi để phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài có trọng tâm, trọng điểm. Xây dựng Chiến lược quốc gia về nhân tài theo hướng không phân biệt đảng viên hay người ngoài Đảng, người Việt Nam hay người nước ngoài[24].
(5) Đổi mới công tác bầu cử, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng cán bộ: (i) Hoàn thiện các quy định, quy chế để cấp ủy các cấp có cơ cấu hợp lý, tinh giản số lượngvà nâng cao chất lượng, không nhất thiết địa phương, cơ quan, đơn vị nào cũng phải có cấp ủy viên. (ii) Tiếp tục thực hiện chủ trương bầu trực tiếp bí thư tại đại hội đảng bộ các cấp ở những nơi có điều kiện; thực hiện nghiêm việc lựa chọn, bầu cử có số dư; ứng viên trước khi bổ nhiệm phải trình bày chương trình hành động và cam kết trách nhiệm thực hiện. (iii) Nhân sự không trúng cử cấp ủy cấp dưới thì không giới thiệu để bầu cấp ủy cấp trên; cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp trên phải kinh qua vị trí chủ chốt cấp dưới, trường hợp đặc biệt do cấp có thẩm quyền quyết định. (iv) Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, bố trí cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số; xây dựng chỉ tiêu cơ cấu phù hợp; nếu chưa bảo đảm cơ cấu thì phải để trống, bổ sung sau. Nghiên cứu thực hiện cấp ủy viên dự khuyết cấp tỉnh. (v) Quy định trách nhiệm của thành viên lãnh đạo và cấp ủy viên các cấp trong việc tiến cử người có đức, có tài; người đứng đầu có trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng, tiến cử người thay thế mình. (vi) Có cơ chế phát hiện quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ trẻ có bản lĩnh, năng lực nổi trội và triển vọng phát triển vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả vượt cấp. (vii) Xây dựng quy định để việc nhận trách nhiệm, từ chức, từ nhiệm trở thành nếp văn hóa ứng xử của cán bộ; hoàn thiện các quy định về cách chức, bãi nhiệm, miễn nhiệm để chủ trương “có lên, có xuống”, “có vào, có ra” là việc bình thường trong công tác cán bộ.
(6) Có lộ trình cải cách tiền lương phù hợp với từng nhóm đối tượng; theo chức vụ, chức danh, vị trí việc làm, năng suất lao động và hiệu quả công tác. Xây dựng chính sách nhà ở theo hướng: Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách; địa phương quy hoạch đất ở, nhà ở; cán bộ, công chức, viên chức mua và thuê mua. Khen thưởng kịp thời, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời có cơ chế bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám đột phá vì lợi ích chung.
(7) Xây dựng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xử lý nghiêm những người sai phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu.
(8) Tiếp tục nghiên cứu, thực hiện thí điểm một số chủ trương: (i) Mở rộng việc thi tuyển để bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp vụ, sở, phòng. (ii) Người đứng đầu lựa chọn, giới thiệu cán bộ trong quy hoạch để thực hiện quy trình bầu cử, bổ nhiệm cấp phó của mình và bí thư cấp ủy giới thiệu để bầu ủy viên ban thường vụ và chịu trách nhiệm về việc giới thiệu của mình. (iii) Giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm cán bộ trong quy hoạch, miễn nhiệm đối với cấp trưởng cấp dưới trực tiếp và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. (iv) Nhân dân trực tiếp bầu chủ tịch UBND xã; cấp trên bổ nhiệm chủ tịch UBND quận, phường, thị trấn và đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt[25].
(9) Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ: (i) Nắm chắc lịch sử chính trị và tập trung vào vấn đề chính trị hiện nay[26]. (ii) Hoàn thiện quy định để xử lý, sử dụng những trường hợp có vấn đề về chính trị. (iii) Không xem xét quy hoạch, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử khi chưa có kết luận về tiêu chuẩn chính trị.
4.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới
(1) Các cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị phải nâng cao trách nhiệm, triển khai đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ và tạo môi trường, điều kiện để xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ; coi trọng trang bị kiến thức về công tác cán bộ cho lãnh đạo các cấp. Tập trung nâng cao chất lượng bí thư cấp ủy, người đứng đầu các cấp và đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
(2) Đẩy mạnh thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ có triển vọng[27] và đặc biệt quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện lớp cán bộ kế cận. Chủ động nắm, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đối với sinh viên, nhất là những người học tập, công tác ở nước ngoài.
(3) Cơ cấu, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ các cấp theo vị trí việc làm, khung năng lực, bảo đảm đúng người, đúng việc, giảm số lượng, nâng cao chất lượng, hợp lý về cơ cấu, kể cả lực lượng vũ trang.
(4) Xây dựng đồng bộ, toàn diện đội ngũ cán bộ các cấp. Chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, tính chuyên nghiệp, tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ ở các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, sức chiến đấu của lực lượng vũ trang. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học; có chính sách ưu đãi để xây dựng đội ngũ nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên các lĩnh vực. Củng cố, nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ trong các doanh nghiệp nhà nước; xây dựng quy định về tuyển dụng, đào tạo, bổ nhiệm cán bộ quản lý kinh tế, quản trị doanh nghiệp phù hợp với cơ chế thị trường.
(5) Nghiên cứu thực hiện cơ chế, chính sách liên thông giữa cán bộ, công chức cấp xã với cán bộ, công chức nói chung; giữa nguồn nhân lực ở khu vực công và khu vực tư; có cơ chế cạnh tranh vị trí việc làm để tiến tới bỏ chế độ “biên chế suốt đời”.
(6) Quản lý chặt chẽ, hiệu quả đội ngũ cán bộ các cấp theo hướng: (i) Xây dựng hệ thống dữ liệu quốc gia về cán bộ[28]. (ii) Địa phương, cơ quan, đơn vị phải thực hiện nghiêm việc quản lý cán bộ theo quy định của cấp có thẩm quyền[29]. (iii) Cơ quan sử dụng cán bộ quản lý chặt chẽ, hiệu quả cán bộ trong và ngoài giờ làm việc. (iv) Người đứng đầu chịu trách nhiệm về quản lý cán bộ theo phân cấp. (v) Bản thân cán bộ thực hiện nghiêm các quy định, quy chế, cam kết của mình và báo cáo, giải trình trung thực khi có yêu cầu.
(7) Hoàn thiện các quy định, quy chế để kiểm soát chặt chẽ, sàng lọc kỹ càng, thay thế kịp thời cán bộ, không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm, đến tuổi nghỉ hưu đối với những người năng lực hạn chế, uy tín thấp, không bảo đảm sức khỏe, có sai phạm. Không lấy việc bố trí chức vụ, phong, thăng quân hàm, nâng ngạch để thực hiện chế độ, chính sách cán bộ.
4.4. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ
Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược bảo đảm các tiêu chuẩn quy định[30] và đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ theo hướng:
(1) Phát hiện, lựa chọn từ nguồn quy hoạch những cán bộ xuất sắc đã được đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện theo chức danh, nhất là những người có thành tích nổi trội, có sản phẩm cụ thể, có triển vọng phát triển và trải qua thực tiễn phong phú.
(2) Bổ sung kiến thức mới, nâng cao trình độ[31]; bồi dưỡng toàn diện về kỹ năng lãnh đạo, quản lý, định kỳ cập nhật kiến thức mới theo từng nhóm đối tượng.
(3) Luân chuyển, điều động giữ vị trí cấp trưởng, phù hợp với chức danh quy hoạch ở địa bàn khó khăn, lĩnh vực trọng yếu, nơi triển khai mô hình mới để thử thách, nâng cao bản lĩnh, nhân sinh quan cách mạng, năng lực lãnh đạo toàn diện của cán bộ.
(4) Tổ chức các lớp dự nguồn cán bộ cao cấp theo từng nhóm đối tượng để chuẩn bị tốt nguồn nhân sự cho các chức danh cấp chiến lược
(5) Đánh giá thực chất nhân sự được giới thiệu bầu cử, bổ nhiệm vào các chức danh cấp chiến lược. Kiên quyết không để lọt những người không xứng đáng[32], những người chạy chức, chạy quyền vào đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.
(6) Định kỳ rà soát, bổ sung quy hoạch nhân sự Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước cho các nhiệm kỳ.
(7) Tập trung xây dựng Ban Chấp hành Trung ương theo hướng nâng cao chất lượng, có số lượng và cơ cấu hợp lý, thực sự bản lĩnh, trí tuệ, tiêu biểu, gương mẫu về mọi mặt. Chủ động chuẩn bị nhân sự, xây dựng hình ảnh đối với các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước và các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
(8) Xây dựng tiêu chuẩn và yêu cầu về đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách đối với Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng theo hướng chỉ lựa chọn cán bộ trẻ, thật sự ưu tú[33].
4.5. Kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ; ngăn chặn, đẩy lùi chạy chức, chạy quyền
(1) Xây dựng và hoàn thiện thể chế để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ theo nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ, quyền hạn phải được ràng buộc bằng trách nhiệm.
(2) Mở rộng, phát huy dân chủ; công khai, minh bạch và đề cao trách nhiệm giải trình, tăng cường cơ chế chất vấn, phản biện trong công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ.
(3) Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra định kỳ, đột xuất; theo chuyên đề, chuyên ngành; của cấp trên đối với cấp dưới; cấp dưới giám sát cấp trên. Coi trọng cả cảnh báo, phòng ngừa, xử lý sai phạm và thẩm tra, xác minh, làm rõ thông tin, dư luận liên quan đến cán bộ.
(4) Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lạm dụng, lợi dụng quyền lực để thực hiện những hành vi sai trái trong công tác cán bộ hoặc tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền. Kiên quyết hủy bỏ, thu hồi các quyết định không đúng về công tác cán bộ, đồng thời xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân sai phạm.
(5) Phát huy vai trò giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội, cơ quan truyền thông và nhân dân để kiểm soát quyền lực trên cơ sở công khai, minh bạch tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự; trao đổi, cung cấp thông tin và giải trình khi có yêu cầu; xử lý kịp thời, hiệu quả, hợp lý thông tin phản ánh từ các tổ chức, cá nhân và phương tiện thông tin đại chúng.
(6) Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền[34]:
(i) Phải nhận thức sâu sắc về hậu quả của chạy chức, chạy quyền[35], coi đây là hành vi tham nhũng trong công tác cán bộ. (ii) Nhận diện rõ ràng, đấu tranh quyết liệt, hiệu quả với các đối tượng và những biểu hiện, hành vi chạy chức, chạy quyền[36]. (iii) Quy định chặt chẽ và thực hiện nghiêm quy trình công tác cán bộ. (iv) Xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu trong công tác cán bộ. (v) Nâng cao ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng và hình thành văn hóa “nói không với chạy chức, chạy quyền”.
4.6. Nâng cao vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ
(1) Thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư[37] về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội và nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.
(2) Thường trực cấp ủy các cấp ở địa phương định kỳ tiếp dân; bí thư, ủy viên ban thường vụ dự sinh hoạt với chi bộ khu dân cư. Phân công cán bộ, đảng viên phụ trách hộ gia đình[38] nơi cư trú để gắn bó mật thiết, máu thịt với nhân dân; truyền đạt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; nắm chắc tình hình cơ sở; qua đó nhân dân thực hiện việc giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là về đạo đức, lối sống.
(3) Cụ thể hóa để thực hiện có hiệu quả cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân giám sát trong công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ.
(4) Nghiên cứu mở rộng các hình thức lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân với từng đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị[39] một cách phù hợp.
(5) Hoàn thiện cơ chế tiếp nhận và xử lý những phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của nhân dân gửi đến cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị; qua các phương tiện thông tin đại chúng; qua phản ánh của người có uy tín trong cộng đồng dân cư với các hình thức phù hợp, hiệu quả.
4.7. Nâng cao chất lượng công tác tham mưu, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về công tác tổ chức, cán bộ
(1) Các cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị thường xuyên chăm lo, xây dựng, củng cố cơ quan tham mưu và đội ngũ làm công tác cán bộ trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, đặc biệt coi trọng lựa chọn, bố trí đúng người đứng đầu cơ quan tổ chức, cán bộ các cấp.
(2) Nâng cao nhận thức, đẩy mạnh công tác tham mưu, xác định rõ trách nhiệm, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cơ quan tham mưu của Đảng trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ theo chức năng, nhiệm vụ của mình.
(3) Xây dựng mô hình tổ chức bộ máy, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ các cấp tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Đẩy mạnh cải cách hành chính, chuẩn hóa văn bản pháp quy, tin học hóa, tự động hóa trong quản lý và điều hành.
(4) Tăng cường giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện để nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác cán bộ “trung thành, trung thực, gương mẫu, trong sáng, tinh thông” đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới.
(5) Kịp thời sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết, quy định, quy chế và những chủ trương thí điểm, mô hình mới, cách làm sáng tạo; nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học và phát triển lý luận về công tác tổ chức, cán bộ.
4.8. Một số nội dung cơ bản về công tác nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc
(1) Xây dựng, hoàn thiện các văn bản liên quan đến công tác nhân sự đại hội phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhất là phương hướng nhân sự đại hội sát với tình hình thực tế.
(2) Tổ chức các lớp cán bộ dự nguồn trong quy hoạch ở các cấp để bổ sung, nâng cao kiến thức, hoàn thiện kỹ năng lãnh đạo, quản lý cần thiết, phù hợp với từng nhóm đối tượng nhằm chuẩn bị tốt nguồn nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc.
(3) Rà soát kỹ càng, bổ sung đầy đủ thông tin, đánh giá chính xác, nắm chắc vấn đề chính trị của cán bộ; thực hiện việc bố trí, sắp xếp, điều động, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ đủ tiêu chuẩn, điều kiện trên cơ sở quy hoạch để chuẩn bị tốt nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc.
(4) Ban thường vụ cấp ủy từng cấp căn cứ tình hình cụ thể sử dụng các cơ quan chuyên môn một cách phù hợp[40] để tiến hành khảo sát, đánh giá chính xác nhân sự theo phân cấp, chủ động chuẩn bị nhân sự đại hội.
Thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp nêu trên cần tập trung vào hai trọng tâm và năm đột phá sau:
– Hai trọng tâm là: (1) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ; chuẩn hoá, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, Điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển và có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; (2) Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và bí thư cấp ủy, người đứng đầu các cấp đi đôi với phân cấp, phân quyền nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo[41], đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ quyền lực.
– Năm đột phá là: (1) Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; (2) Kiểm soát chặt chẽ quyền lực, sàng lọc kỹ càng, thay thế kịp thời; chấm dứt tình trạng chạy chức, chạy quyền; (3) Thực hiện nhất quán chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương ở những nơi đủ Điều kiện; (4) Cải cách chính sách tiền lương và nhà ở để tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc; có cơ chế, chính sách để tạo cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và thu hút, trọng dụng nhân tài; (5) Hoàn thiện cơ chế để cán bộ, đảng viên thật sự gắn bó mật thiết với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.
[1] Hồ Chí Minh Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr. 280, 309. [2] Theo Tổng cục Thống kê, năm 2016, năng suất lao động của Việt Nam tính theo thu nhập đầu người bằng 7% của Singapore, 17,6% Malaysia, 36,5% Thái Lan, 42,3% Indonesia, 56,7% Phillipin, 87,4% Lào. [3] Đã ban hành 142 văn bản của Đảng (07 nghị quyết, 52 quy định, quy chế, 07 chỉ thị, 18 kết luận, 17 thông báo, 41 hướng dẫn); 02 luật và nhiều nghị định, nghị quyết có liên quan. Từ đầu nhiệm kỳ khóa XII đến nay, đã ban hành 26 văn bản (02 nghị quyết, 01 chỉ thị, 13 quy định, quy chế, 01 kết luận, 05 thông báo, 04 hướng dẫn). [4] Trong nhiệm kỳ khóa XI đã thực hiện quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016 – 2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo; lấy phiếu tín nhiệm trong Đảng, cơ quan dân cử; kiện toàn các chức danh lãnh đạo Nhà nước ngay sau Đại hội; tổ chức các lớp bồi dưỡng cán bộ cấp cao và dự nguồn. [5] Có 14 nội dung nêu trong Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII và Kết luận 37-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa X đến nay vẫn chưa được cụ thể hóa. [6] Theo Khoản 3, Điều 3, Quy định số 98-QĐ/TW, ngày 07/10/2017 của Bộ Chính trị: “Người địa phương được hiểu là người sinh ra, lớn lên và trưởng thành ở địa phương đó hoặc là người đã học tập, công tác từ 20 năm trở lên ở địa phương đó”. [7] Quy định về phân cấp quản lý cán bộ theo Quy định 67-QĐ/TW của Bộ Chính trị sau 10 năm thực hiện mới được bổ sung, sửa đổi thành Quy định 105-QĐ/TW, ngày 19/12/2017. [8] Đại hội đảng bộ cơ sở trực tiếp bầu ban thường vụ, bí thư, phó bí thư cấp ủy; nhất thể hóa một số chức danh lãnh đạo Đảng, chính quyền ở cấp xã, cấp huyện. [9] Còn tình trạng thiếu trách nhiệm, chưa gương mẫu, mất dân chủ, nể nang, né tránh, ngại va chạm, dùng tập thể để hợp lý hóa ý đồ cá nhân. Theo điều tra dư luận xã hội năm 2018: có 58% người được hỏi thống nhất với nhận định này. [10] Việc thực hiện Quy định số 76-QĐ/TW, ngày 15/6/2000 của Bộ Chính trị về việc đảng viên đang công tác ở các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thường xuyên giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú còn hình thức. [11] Khả năng làm việc trong môi trường quốc tế: hiểu biết rộng; sử dụng được một trong các ngoại ngữ Anh, Pháp, Nga, Trung, Tây Ban Nha, Arab; sử dụng thành thạo máy tính, có kỹ năng đối ngoại, am hiểu luật pháp quốc tế, có khả năng làm việc độc lập, làm việc nhóm… [12] Nghị quyết 11-NQ/TW, ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị đặt mục tiêu đến năm 2020 là 25% trở lên; hiện nay, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy tỉnh là 10,7%. [13] Thực hiện nghiêm Quy định 164-QĐ/TW, ngày 01/02/2013 của Bộ Chính trị về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. [14] Phân cấp theo hướng: cấp nào làm tốt hơn và nắm chắc hơn về cán bộ thì giao cho cấp ấy thực hiện và quản lý. [15] Xuyên suốt cả quá trình phấn đấu, trưởng thành. [16] Định kỳ theo tuần, tháng, quý, 6 tháng, năm theo từng nhóm đối tượng cụ thể. [17] Cấp trên đánh giá cấp dưới; đồng cấp đánh giá; cấp dưới đánh giá cấp trên; bản thân tự đánh giá. [18] Tiêu chí về: chính trị tư tưởng; đạo đức, lối sống; ý thức tổ chức kỷ luật; tác phong, lề lối làm việc; kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao theo vị trí việc làm; chiều hướng và triển vọng phát triển. [19] Phải có kết quả cụ thể, được cấp có thẩm quyền ghi nhận, đánh giá. [20] Khảo sát nhân sự trước khi bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử. [21] Phù hợp với Thông báo kết luận của Bộ Chính trị về kết quả kiểm tra thực hiện Kết luận 24-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI về đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ gắn với thực hiện quy chế bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán bộ ứng cử theo Quy định số 68-QĐ/TW (số 43-TB/TW, ngày 28/12/2017 của Văn phòng Trung ương). Theo đó, xây dựng cơ chế và lộ trình thực hiện thống nhất việc kiểm định chất lượng đầu vào công chức để kiểm tra, đánh giá và cấp chứng chỉ chất lượng cho đầu vào công chức của cả hệ thống chính trị. Giao cho Học viện Hành chính quốc gia thực hiện và xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ, chống tiêu cực. [22] Theo hướng đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học; gắn chặt lý luận với thực tiễn; kiểm tra, sát hạch chặt chẽ đầu vào, đầu ra; chú trọng đào tạo tư duy, phương pháp luận, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, điều hành… Cùng với việc trang bị ngoại ngữ cho cán bộ, xây dựng chương trình học song ngữ trong các cấp học phổ thông. [23] Cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp cần hiểu biết rộng, có kiến thức cơ bản tương đối toàn diện và cần được luân chuyển qua nhiều công việc ở nhiều lĩnh vực và địa bàn khác nhau. [24] Thu hút nhân tài để tăng cường nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển đất nước; đối với cán bộ thì phải bảo đảm các tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của Luật. [25] Phân biệt giữa chính quyền nông thôn, chính quyền đô thị và đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. [26] Chú trọng xem xét về lập trường, quan điểm, phát ngôn, động cơ, thái độ chính trị, đạo đức, lối sống; phát hiện, ngăn chặn những trường hợp cơ hội, bất mãn chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. [27] Nghị định số 140/2017/NĐ-CP, ngày 05/12/2017 của Chính phủ. [28] Hồ sơ, mối quan hệ, thu nhập, tài sản và sức khỏe… [29] Cán bộ cấp chiến lược thực hiện theo Quy định 105-QĐ/TW ngày 19/12/2017 của Bộ Chính trị về phân cấp quản lý và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử. [30] Quy định 90-QĐ/TW, ngày 04/8/2017 của Bộ Chính trị. [31] Về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học… [32] Những người không bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định, những người có biểu hiện cơ hội, tiêu cực, tham vọng quyền lực, lợi ích nhóm. [33] Những cán bộ trẻ có phẩm chất, năng lực vượt trội, chú trọng những đồng chí hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở những địa bàn trọng yếu, phức tạp, những lĩnh vực quan trọng đáp ứng yêu cầu phát triển cao của đất nước và có sản phẩm cụ thể. [34] “Chạy chức, chạy quyền” là hành vi lợi dụng sơ hở trong các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước; dùng các lợi ích khác nhau, cả vật chất và phi vật chất cùng các thủ đoạn, mánh lới, quan hệ… để trao đổi trực tiếp, gián tiếp hoặc gây sức ép… với các tổ chức, cá nhân có liên quan nhằm được sắp xếp, bố trí, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử vào các chức vụ, vị trí có quyền và lợi ích cao hơn. [35] Tình trạng chạy chức, chạy quyền gây hậu quả nghiêm trọng, đó là: vô hiệu hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ; bố trí sai cán bộ; ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường làm việc, triệt tiêu động lực phấn đấu của đội ngũ cán bộ và hiệu quả hoạt động của tổ chức; gây bất bình trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. [36] Chạy chức, chạy quyền là sự câu kết không trong sáng giữa người ham muốn chức, quyền với người có thẩm quyền thông qua việc trao đổi, thỏa thuận trực tiếp hoặc gián tiếp, bằng vật chất, phi vật chất và các mối quan hệ, hành vi tiêu cực khác có liên quan để đạt được ý đồ cá nhân. [37] Quyết định số 217-QĐ/TW, số 218-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị; Quyết định số 99-QĐ/TW, ngày 03/10/2017 của Ban Bí thư; Quy định số 124-QĐ/TW, ngày 02/02/2018 của Ban Bí thư. [38] Hiện nay có trên 5 triệu đảng viên và gần 25 triệụ hộ gia đình (Tính đến ngày 01/04/2015 – Nguồn: Tổng cục Thống kê). Như vậy, mỗi đảng viên sẽ phụ trách khoảng 5 hộ gia đình. [39] Ngoài việc lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân đối với cán bộ theo Quy định 99-QĐ/TW, nghiên cứu mở rộng các kênh lấy ý kiến về sự hài lòng của người dân với cán bộ lãnh đạo, quản lý thông qua điều tra dư luận xã hội… [40] Lập tổ công tác để trực tiếp khảo sát, gặp gỡ, trao đổi, tiếp nhận ý kiến phản ánh của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến nhân sự đại hội Đảng các cấp. [41] Từng cấp phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ thuộc thẩm quyền quản lý theo phân cấp.