Việc cho ra đời những tiêu chuẩn về thinktank cũng giống như việc cho ra đời các tiêu chuẩn về tổ chức, mong muốn các tổ chức có khả năng đáp ứng tốt hơn các tư vấn cho lãnh đạo, mục tiêu lớn nhất của nó là giảm các sai lầm trong tư vấn chính sách.
Ngày 02/02/2018, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) tổ chức tọa đàm Đặc điểm và Hướng đi của Think Tanks Việt Nam trong cải cách và hội nhập 4.0.
Think Tank là gì?
Think Tank là các tổ chức nghiên cứu, phân tích và vận động chính sách, cung cấp các phân tích và tư vấn chính sách cho các vấn đề trong nước và quốc tế, hỗ trợ cho quá trình ra quyết định của các nhà hoạch định chính sách, cũng như công chúng.
Think Tank có thể là các tổ chức gắn liền với các đảng chính trị, các cơ quan thuộc chính phủ, các nhóm lợi ích, các tập đoàn kinh tế khác tồn tại như một tổ chức phi chính phủ (NGOs). Các tổ chức hoạt động như cầu nối giữa giới hàn lâm và giưới hoạch định chính sách, là tiếng nói độc lập chuyển tải các kết quả nghiên cứu bằng ngôn ngữ dễ hiểu, đáng tin cậy và dễ tiếp cận với mọi đối tượng.
Các Think Tank tập trung nguồn lực vào việc xây dựng và công bố các nghiên cứu và phân tích chính sách trong nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, chính sách công, quan hệ quốc tế…
Sản phẩm của các Think Tank là sách, báo cáo, tóm lược chính sách, hội nghị, hội thảo, tọa đàm, các đề xuất – kiến nghị chính sách hoặc các thảo luận không chính thức với các nhà hoạch định chính sách và các bên liên quan, quan điểm trên blogs, mạng xã hội.
Có 7 loại Think Tank, gồm: Think Tank độc lập hoàn toàn (độc lập với các nhóm lợi ích, các nhà tài trợ tư chủ trong hoạt động và ngân sách); Think Tank độc lập tương đối (độc lập với chính phủ nhưng một nhóm lợi ích cung cấp phần lớn nguồn tài chính và có ảnh hưởng rõ rẹt tới hoạt động của Think Tank); Think Tank thuộc trường đại học; Think Tank thuộc đảng chính trị; Think Tank thuộc chính phủ; Think Tank nửa chính phủ; và Think Tank vì lợi nhuận.
Các Think Tank của Việt Nam ít được thế giới công nhận
Phát biểu tại tọa đàm, TS. Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng VEPR, cho hay ở Việt Nam, các Think Tanks có nhiều, nhưng trong Bảng xếp hạng Global go to Think Tank Index 2017, thì lại chỉ có 7 Think Tanks được thế giới công nhận, mặc dù nhiều hơn năm 2016 1 tổ chức.
Cụ thể, ở xếp loại Think Tank hàng đầu khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương, Việt Nam có 5 đơn vị được xếp hạng, gồm: Viện Kinh tế và Chính trị Thế Giới (IWEP) xếp thứ 30; Học viện Ngoại Giao Việt Nam (DAV) xếp thứ 40; Viện Kinh tế Việt Nam (VIE) xếp thứ 42; Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) xếp thứ 56; Viện Nghiên cứu châu Mỹ (VIAS) xếp thứ 97. Các vị trí top đầu thuộc về Think Tank đến từ Singapore, Australia và New Zealand.
Ngoài ra, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) cũng được xếp hạng thứ 69 trong số các Think Tank hàng đầu về Chính sách kinh tế trong nước; Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) được đánh giá thứ 123 trong bảng xếp hạng các Think Tank hàng đầu về phát triển quốc tế; Viện Kinh tế và Chính trị Thế Giới (IWEP) và Học viện Ngoại giao Việt Nam (DAV) được xếp hạng lần lượt là 24 và 40 trong bảng xếp hạng các Think Tank thuộc Chính phủ tốt nhất; Trung tâm Nghiên cứu Hệ thống Y tế – Đại học Y Hà Nội (CHSR) được xếp hạng thứ 24 trong bảng xếp hạng các Think Tank hàng đầu về Chính sách y tế quốc gia và thứ 23 trong các Think Tank hàng đầu về Chính sách y tế quốc tế.
Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh cho biết, vai trò của các Think Tank của Việt Nam trong Bảng xếp hạng này còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu nghiên cứu thực tế trong phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam.
Về thực trạng phát triển các Think Tank ở Việt Nam, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho biết, lâu nay khi nói về Think Tank ở Việt Nam dường như nói nhiều về những viện nghiên cứu do Nhà nước thành lập để góp ý trực tiếp cho Nhà nước, còn về các Think Tank xã hội và có tác động lan tỏa trong xã hội, thì lại chưa được nhắc đến nhiều.
Bà Lan cho rằng, hiện đang có 5 hạn chế lớn khiến các Think Tank của Việt Nam khó phát huy được vai trò của mình, đó là hạn chế về khung pháp lý, quyền tự do nghiên cứu, huy động nguồn lực, không được tiếp thu kết quả nghiên cứu và tham gia các trao đổi với bên ngoài.
Cụ thể, về khung pháp lý và quyền tự do, tính độc lập trong nghiên cứu. Trước nay chỉ mới có Quyết định 97 ra đời năm 2009 tạm coi là khung pháp lý về Think Tank. Nhưng, lại quy định, các Think Tank trước khi phản biện chính sách phải gửi các kết quả nghiên cứu cho các cơ quan nhà nước, chứ không được công bố trên báo chí. Điều này hạn chế quyền tự do và tính độc lập trong nghiên cứu của các Think Tank.
Về nguồn lực, các Think Tank tư hiện nay bị hạn chế rất nhiều trong việc huy động các nguồn tài trợ, nhất là nguồn tài trợ từ các tổ chức bên ngoài, vì muốn nhận được tài trợ, thì các tổ chức này phải xin phép. Tuy nhiên, nếu các nghiên cứu tham gia vào chính sách, mà các chính sách đó bị coi là nhạy cảm, thì phải ngừng việc nhận tài trợ.
“Có một số Think Tank được các tổ chức nước ngoài đồng ý tài trợ nghiên cứu, nhưng không được cơ quan nhà nước cho phép tiếp nhận. Chính vì vậy mới xảy ra hiện tượng “bên ngoài sẵn sàng trả, nhưng mình không sẵn sàng tiếp nhận”. Đó là điều đáng tiếc!”, bà Lan cho biết.
Tiếp đó là việc các kết quả nghiên cứu không nhận được sự tiếp thu của các các cơ quan nhà nước, khiến các Think Tank thực sự nản lòng!
Cuối cùng là sự hạn chế về mặt giao tiếp, tự giới thiệu mình và tham gia các trao đổi bên ngoài của các Think Tank.
Bà Lan cho biết, mặc dù một số Think Tank của Việt Nam, như: CIEM, VEPR… đã khá là cởi mở trong việc mời những người bên ngoài viện tham gia vào phản biện chính sách và công bố thông tin trước báo chí, nhưng nếu chỉ trong phạm vi ở Việt Nam thôi thì không đủ, nhất là trong bối cảnh hội nhập, thì sự giao lưu trao đổi càng cần được đề cao./.