Nội dung chính:
Cưỡng chế nợ thuế là gì?
Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp thường gặp trường hợp: Tài khoản ngân hàng nộp thuế tự trừ tiền thuế trong khi không nộp giấy nộp tiền.
Trường hợp như vậy, doanh nghiệp đã bị cưỡng chế thuế. Vậy cưỡng chế nợ thuế là gì?
Cưỡng chế nợ thuế là một trong những biện pháp được Tổng cục thuế áp dụng để xử lý tình trạng nợ thuế có khả năng thu hồi theo quy định của Luật Quản lý Thuế.
Các trường hợp doanh nghiệp bị cưỡng chế nợ thuế
Theo Khoản 1, Điều 2, Thông tư 215/2013/TT-BTC Bộ Tài chính đã quy định có 4 trường hợp:
- Người nộp thuế nợ tiền thuế, tiền chậm nộp thuế đã quá 90 ngày kể từ ngày hết thời hạn, hạn gia hạn nộp thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế và cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Người nộp thuế còn nợ tiền thuế, tiền phạt, tiền nộp chậm mà có hành vi bỏ trốn, tẩu tán tài sản.
- Người nộp thuế không chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế trong thời hạn 10 ngày kể từ nhận được quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính vi phạm về thuế.
- Trường hợp quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế có thời hạn thi hành nhiều hơn 10 ngày mà Người nộp thuế không chấp hành quyết định xử phạt theo thời hạn ghi trên quyết định xử phạt thì bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế (trừ trường hợp được hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế).
Ngoài ra, theo Khoản 2,3,4,5 Điều 2, Thông tư 215/2013/TT-BTC có thêm một số trường hợp vi phạm dưới đây:
- Tổ chức tín dụng không chấp hành quyết định xử phạt hành chính về thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế và Luật Xử lý vi phạm hành chính.
- Tổ chức bảo lãnh nộp tiền thuế cho người nộp thuế: quá thời hạn quy định 90 ngày – tính từ ngày hết hạn nộp tiền thuế, tiền phạt, tiền chậm nộp tiền thuế theo văn bản chấp thuận của cơ quan thuế mà người nộp thuế chưa nộp đủ vào ngân sách nhà nước thì bên bảo lãnh bị cưỡng chế theo quy định của Luật Quản lý thuế và Luật Xử lý vi phạm hành chính.
- Kho bạc nhà nước không thực hiện việc trích chuyển tiền từ tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế mở tại kho bạc nhà nước để nộp vào ngân sách nhà nước theo quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế của cơ quan thuế.
- Tổ chức, cá nhân có liên quan không chấp hành các quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế của cơ quan có thẩm quyền.
Ảnh hưởng của doanh nghiệp khi bị cưỡng chế nợ thuế
Căn cứ Điều 31 đến Điều 37 Nghị định 126/2020/NĐ-CP, Người nộp thuế thuộc trường hợp bị cưỡng chế, Cơ quan Thuế sẽ áp dụng các biện pháp sau:
- Trích tiền từ tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế tại kho bạc nhà nước, tổ chức tín dụng; yêu cầu phong tỏa tài khoản.
- Khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập.
- Thông báo hóa đơn không còn giá trị sử dụng.
- Kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản kê biên theo quy định của pháp luật để thu tiền thuế nợ, tiền phạt, tiền nộp chậm nộp tiền thuế vào ngân sách nhà nước.
- Thu tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế do tổ chức, cá nhân đang giữ.
- Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề.
Nguyên tắc áp dụng: Doanh nghiệp bị áp dụng biện pháp cưỡng chế tiếp theo khi không áp dụng được các biện pháp trước đó hoặc đã áp dụng mà vẫn không đủ tiền thuế nợ, tiền phạt, tiền chậm nộp tiền thuế theo quyết định hành chính thuế. Trường hợp cưỡng chế bằng biện pháp khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập thì chỉ áp dụng đối với người nộp thuế là cá nhân.
Cách xử lý nếu doanh nghiệp bị cưỡng chế nợ thuế
Theo Công văn 1695/TCT-QLN được Tổng cục thuế ban hành ngày 22/04/2016, một số doanh nghiệp khi bị cưỡng chế vần có thể được sử dụng hóa đơn lẻ để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh. Cụ thể như sau:
- Doanh nghiệp có đề xuất văn bản đề nghị được dùng hóa đơn cho từng lô hàng, từng hạng mục công trình.
- Doanh nghiệp cam kết thực hiện nộp thuế với tiền thuế phát sinh và tiền nợ ít nhất bằng 15% doanh thu trên hóa đơn lẻ.
Hỏi – đáp về vấn đề cưỡng chế nợ thuế
Câu hỏi 1: Doanh nghiệp bị cưỡng chế nợ thuế có phải nộp báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn hay không?
Trả lời
Theo quy định tại Điều 27 Thông tư số 39/2014/TT-BTC ngày 31/3/2014 của Bộ Tài chính: Hàng quý, tổ chức, hộ, cá nhân bán hàng hoá, dịch vụ (trừ đối tượng được cơ quan thuế cấp hóa đơn) có trách nhiệm nộp Báo cáo tình hình sử dụng hoá đơn cho cơ quan thuế quản lý trực tiếp, kể cả trường hợp trong kỳ không sử dụng hóa đơn.
Do vậy, trường hợp doanh nghiệp đã sử dụng hết hóa đơn, đã báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn quý, ghi số lượng hóa đơn tồn cuối kỳ bằng không (=0) thì trong các quý tiếp theo khi doanh nghiệp chưa tiếp tục mua hóa đơn của cơ quan thuế hoặc chưa tiếp tục Thông báo phát hành hóa đơn, chưa sử dụng hóa đơn, doanh nghiệp không phải lập báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn gửi cơ quan thuế.
Trường hợp doanh nghiệp còn tồn hóa đơn đã thông báo phát hành và cơ quan thuế áp dụng cưỡng chế nợ thuế bằng biện pháp thông báo hóa đơn không còn giá trị sử dụng, doanh nghiệp vẫn phải nộp Báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn theo quy định.
Nguồn: Tạp chí doanh nghiệp
Câu hỏi 2: Trường hợp cưỡng chế nợ thuế thu nhập doanh nghiệp
Trả lời
Trước đó, Tổng cục Thuế nhận được Công văn số 80/CT-TCKT ngày 24/5/2018 của Công ty cổ phần BOT Quốc lộ 2 về việc cưỡng chế nợ thuế thu nhập doanh nghiệp(TNDN) năm 2017.
Về vấn đề này, Tổng cục Thuế cho biết, tại Khoản 8 Điều 5 Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ngày 12/02/2015 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung Điều 31 của Nghị định số 83/2013/NĐ-CP ngày 22/7/2013 quy định về vấn đề gia hạn nộp thuế.
Theo đó, quy định về các trường hợp được gia hạn thì việc gia hạn nộp thuế được xem xét trên cơ sở đề nghị của người nộp thuế theo một trong các trường hợp sau đây:
- Bị thiệt hại vật chất, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, kinh doanh do gặp thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ. Thiệt hại vật chất là những tổn thất về tài sản của người nộp thuế, tính được bằng tiền như: Máy móc, thiết bị, phương tiện, vật tư, hàng hóa, nhà xưởng, trụ sở làm việc, tiền, các giấy tờ có giá trị như tiền.
- Phải ngừng hoạt động do di dời cơ sở sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất, kinh doanh.
- Không có khả năng nộp thuế đúng hạn trong trường hợp nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu có chu kỳ sản xuất, dự trữ dài hơn 275 ngày hoặc do phía khách hàng hủy hợp đồng hoặc kéo dài thời gian giao hàng.
- Các trường hợp gặp khó khăn đặc biệt khác.
Trong khi đó, tại Khoản 3 Điều 3 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Quản lý thuế số 106/2016/QH13 ngày 06/4/2016 quy định người nộp thuế chậm nộp tiền thuế so với thời hạn quy định, thời hạn gia hạn nộp thuế, thời hạn ghi trong thông báo của cơ quan quản lý thuế, thời hạn trong quyết định xử lý của cơ quan quản lý thuế thì phải nộp đủ tiền thuế và tiền chậm nộp theo mức bằng 0,03%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp.
Đồng thời, tại Khoản 1 Điều 2 Thông tư số 215/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính quy định các trường hợp bị cưỡng chế thì người nộp thuế nợ tiền thuế, tiền chậm nộp tiền thuế đã quá 90 ngày kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế, hết thời hạn gia hạn nộp thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế và của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Như vậy, căn cứ các quy định nêu trên, hiện nay Luật Quản lý thuế không có quy định về việc khoanh nợ, Công ty cổ phần BOT Quốc lộ 2 không thuộc trường hợp được gia hạn nộp thuế.
Theo quy định tại Khoản 8 Điều 5 Nghị Định số 12/2015/NĐ-CP ngày 12/02/2015 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung Điều 31 của Nghị định số 83/2013/NĐ-CP ngày 22/7/2013, trường hợp Công ty cổ phần BOT Quốc lộ 2 nợ tiền thuế TNDN, tiền chậm nộp quá 90 ngày thì cơ quan thuế sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế nợ thuế theo đúng quy định.
Do vậy, Tổng cục Thuế đề nghị Công ty nộp đủ số tiền thuế nợ và tiền chậm nộp vào ngân sách Nhà nước.
Nguồn: Tạp chí tài chính
1. Các trường hợp bị cưỡng chế nộp thuế:
+ Người nộp thuế nợ tiền thuế, tiền chậm nộp tiền thuế đã quá 90 (chín mươi) ngày kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế, hết thời hạn gia hạn nộp thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế và của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
+ Người nộp thuế còn nợ tiền thuế, tiền phạt, tiền chậm nộp tiền thuế có hành vi bỏ trốn, tẩu tán tài sản.
+ Người nộp thuế không chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế trong thời hạn 10 (mười) ngày kể từ ngày nhận được quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế thì bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế. Trường hợp quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế có thời hạn thi hành nhiều hơn 10 (mười) ngày mà Người nộp thuế không chấp hành quyết định xử phạt theo thời hạn ghi trên quyết định xử phạt thì bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế (trừ trường hợp được hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế”.
2. Các biện pháp cưỡng chế:
+ Trích tiền từ tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế tại kho bạc nhà nước, tổ chức tín dụng; yêu cầu phong tỏa tài khoản.
+ Khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập.
+ Thông báo hóa đơn không còn giá trị sử dụng.
+ Kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản kê biên theo quy định của pháp luật để thu tiền thuế nợ, tiền phạt, tiền chậm nộp tiền thuế vào ngân sách nhà nước.
+ Thu tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế do tổ chức, cá nhân khác đang giữ.
+ Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề”.
3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp cưỡng chế:
Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế tiếp theo được thực hiện khi không áp dụng được các biện pháp cưỡng chế trước đó hoặc đã áp dụng các biện pháp cưỡng chế trước đó nhưng chưa thu đủ tiền thuế nợ, tiền phạt, tiền chậm nộp tiền thuế theo quyết định hành chính thuế; trường hợp cưỡng chế bằng biện pháp khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập thì chỉ áp dụng đối với Người nộp thuế là cá nhân.
4. Xuất lẻ Hóa đơn:
Trường hợp Người nộp thuế đang bị áp dụng biện pháp cưỡng chế “Thông báo hóa đơn không còn giá trị sử dụng”, nếu Người nộp thuế có nhu cầu xuất hóa đơn để có nguồn thanh toán tiền lương công nhân, thanh toán các khoản chi phí, đảm bảo sản xuất kinh doanh được liên tục thì Người nộp thuế có Văn bản gửi Cơ quan Thuế đề nghị xuất lẻ Hóa đơn. Trong Văn bản Người nộp thuế cam kết nộp toàn bộ số tiền thuế phát sinh cho Hóa đơn xuất lẻ đó và kế hoạch nộp tiền thuế, tiền phạt và tiền chậm nộp còn nợ vào Ngân sách Nhà nước (Các Hóa đơn đề nghị xuất lẻ là các hóa đơn của Người nộp thuế đang bị áp dụng biện pháp cưỡng chế “Thông báo hóa đơn không còn giá trị sử dụng”).
Hết thời hạn Quyết định cưỡng chế bằng biện pháp“Thông hóa đơn không còn giá trị sử dụng” mà vẫn không thu đủ số tiền thuế, tiền phạt và tiền chậm nộp thì Cơ quan Thuế xem xét thực hiện áp dụng biện pháp cưỡng chế tiếp theo.