(SONG NGỮ) LỜI PHẬT DẠY TỪ KINH TẠNG PĀLI by BHIKKHU BODHI

LỜI PHẬT DẠY (*) TỪ KINH TẠNG (**) PĀLI by BHIKKHU BODHI

In The Buddha’s Words by BHIKKHU BODHI 

Đôi nét tiểu sử BHIKKHU BODHI 

  • Tỷ-kheo Bodhi, thế danh là Jeffrey Block, sinh năm 1944 tại Brooklyn, New York. Ngài là một tu sĩ Phật giáo theo truyền thống Theravāda.
Đôi nét tiểu sử BHIKKHU BODHI
  • Từ những năm ở lứa tuổi đôi mươi, Phật giáo đã có sức thu hút mãnh liệt đối với sư. Năm 1972, sau khi hoàn tất học vị Tiến sĩ Triết học tại Đại học Claremont Graduate School, sư du hành đến Sri Lanka (Tích Lan) và thọ giới Sa-di. Năm 1973, sư thọ giới Tỷ-kheo với giới sư là ngài Ānanda Maitreya, một vị sư học giả Phật giáo thuộc hàng ngũ lãnh đạo của Sri Lanka thời bấy giờ.
  • Năm 1984, Tỷ-kheo Bodhi được bổ nhiệm làm Chủ biên Hội Xuất Bản Kinh Sách Phật giáo ở Kandy, Sri Lanka, sau đó ngài được bầu làm Chủ tịch Hội này. Ngài đã sinh sống và làm việctại Sri Lanka gần 30 năm.
  • Năm 2002, Tỷ-kheo Bodhi trở về New York. Hiện nay, ngài cư ngụ tại Tu viện Chuang Yen, New York và giảng dạy Phật pháp tại đây và tại Bodhi Monastery ở New Jersey. Ngài cũng là Chủ tịch Hội Phật Giáo Hoa Kỳ (Buddhist Association of the United States – BAUS), Hội Yin Shun, và Chủ Tịch Sáng Lập Quỹ Phật giáo Cứu Trợ Toàn Cầu (Buddhist Global Relief), đặt trụ sở tại New York, nhằm mục đích cứu trợ nạn đói và nạn thất học toàn cầu.

Tỷ-kheo Bodhi vừa là tác giả, dịch giả và chủ biên của nhiều tác phẩm Phật học giá trị, gồm có:

  • Lời Phật Dạy về sự Hòa Hợp trong Cộng Đồng và Xã Hội (The Buddha’s Teachings on Social and Communal Harmony). Bhikkhu Bodhi tuyển chọn và giới thiệu (2016).
  • Tăng Chi Bộ Kinh: Bản Dịch Mới (Numerical Discourses of the Buddha: A New Translation of the Aṅguttara Nikāya) (2012), Bhikkhu Bodhi dịch.
  • Hợp Tuyển Lời Phật Dạy Từ Kinh Tạng Pāli (In the Buddha’s Words: An Anthology of Discourses from the Pāli Canon), Bhikkhu Bodhi tuyển chọn và giới thiệu (2005).
  • Trung Bộ Kinh, Bhikkhu Bodhi đồng dịch giả với Tỷ-kheo Nānamoli (The Middle Length Discourses of the Buddha: A translation from the Majjhima Nikāya (2001).
  • Tương Ưng Bộ Kinh (The Connected Discourses of the Buddha: A Translation from the Saṃyutta Nikāya), Bhikkhu Bodhi dịch (2000).
  • Tăng Chi Bộ Kinh (Numerical Discourses of the Buddha: An Anthology of Suttas from the Aṅguttara Nikāya), Nyanaponika Thera dịch (1999), Bhikkhu Bodhi biên tập.
  • Cẩm Nang Tổng Hợp Vi Diệu Pháp (A Comprehensive Manual of the Abhidhamma) (2000), Bhikkhu Bodhi biên soạn. Bát Thánh đạo: Con Đường Chấm Dứt Khổ Đau (The Noble Eigthfold Path: Way to the End of Suffering) (2000), Bhikkhu Bodhi biên soạn.

Giải thích thêm

(*)  Lời của Phật là lời của một bậc Tĩnh Thức: “Chớ làm các điều ác, nên làm những việc lành, giữ tâm ý thanh sạch.” Đó là lời chư Phật dạy. Lời Phật dạy dễ đến độ đứa trẻ lên ba cũng nói được, nhưng khó đến độ cụ già 80 cũng không thực hành nỗi

Teaching of the Buddha—Teaching of the Awakened One: “Not to commit any sin, to do good, to purify one’s mind.” Buddha’s teaching is so easy to speak about, but very difficult to put into practice. The Buddha’s teaching is so easy that a child of three knows how to speak, but it is so difficult that even an old man of eighty finds it difficult to practice.

(**)

經藏; S: sūtra-piṭaka; P: sutta-piṭaka;
Tạng thứ hai của Tam tạng (s: tripiṭaka). Kinh tạng chứa tất cả những bài giảng do chính Phật Thích-ca thuyết. Kinh tạng viết bằng văn hệ Phạn ngữ gồm có bốn A-hàm, bằng văn hệ Pā-li của Thượng toạ bộ có năm bộ, Bộ kinh.

(經藏) ….. I. Kinh Tạng. Chỉ cho tạng kinh trong 3 tạng Kinh, Luật, Luận. (xt. Kinh). II. Kinh Tạng. Cũng gọi Kinh lâu, Kinh đường, Kinh khố, Pháp tạng, Luân tạng, Chuyển luân tạng, Tàng kinh các, Pháp bảo điện. Chỉ cho những tòa nhà cất chứa kinh điển. Cứ theo Thập bất nhị môn chỉ yếu sao quyển thượng, thì trong một châu ở Hàng châu có thiết lập 10 sở Kinh tạng do Ngô việt vương kiến tạo. Từ đời Tống về sau, do Đại tạng kinh được ấn hành nhiều lần, nên Kinh tạng cũng theo đó mà được thiết lập ở khắp nơi trong nước.

Ở Nhật bản hiện nay còn rất nhiều Kinh tạng được kiến trúc từ đời xưa, như Kinh lâu(thời Nại lương) ở chùa Pháp long và các Kinh khố được xây dựng theo kiểu Hiệu thương. Từ thời Liêm thương, hình thức cấu tạo Kinh tạng có thay đổi, tức là ở giữa Kinh đường có thiết lập Luân tạng, theo nghĩa chuyển pháp luân hoặc chuyển độc. Tức là nếu không có thì giờ hoặc người không biết chữ để tụng, đọc kinh văn, thì cứ quay Luân tạng nhiều vòng cũng được công đức như người tụng kinh. Tại Trung quốc, Kinh tạng đã được thiết lập vào thời Nam Bắc triều, mà Luân tạng cũng đã có từ thời Đại sĩ Thiện tuệ Phó hấp đời Lương. [X. Đại đường tây vực kí Q.3; Quảng hoằng minh tập Q.22; Thích môn chính thống Q.3 Tháp miếu chí]. (xt. Phật giáo Đồ Thư Quán).

Sutta-piṭāka (P), SŪtra-piṭāka (S), Suttapiṭaka (P)Một trong tam tạng kinh điển: Kinh tạng- Luật tạng- Luận tạng, gồm 5 phẩm: Trường bộ kinh, Trung bộ kinh, Tiểu bộ kinh, Tương Ưng bộ kinh, Tăng chi bộ kinh.

The sùtra-pitaka. Baskket of sùtras.
5557<一>指經、律、論三藏中之經藏。(參閱「經」5548)[1] <二>又作經樓、經堂、經庫、法藏、輪藏、轉輪藏、藏經閣、法寶殿。即指收藏經文之建築物。於印度、中國、朝鮮等,早已有建造經藏之事蹟,例如十不二門指要鈔卷上之記載,於杭州一州之內,即有十所經藏之設立,此係由於吳越王篤信佛教,乃命匠造立之。宋代之後,以大藏經之多次開版,隨而促成經藏之廣泛設立。於日本,造於古代之遺構極多,如法隆寺之經樓(奈良)及校倉造之經庫等均屬之。自鎌倉時代,經藏之構造有所變更,即於堂宇中心置放經箱,並做一迴轉之設計,稱爲輪藏;即從轉法輪或轉讀之意而來者。經文如此輪轉,雖未誦讀,然亦有功德可言。經藏之制於南北朝時即已設立,輪藏之制亦早在梁朝善慧大士傅翕時即已有之。〔大唐西域記卷三、廣弘明集卷二十二、釋門正統卷三塔廟志〕(參閱「佛教圖書館」2700)

Các Khóa Giảng Kinh trên mạng Internet:

  • Giáo lý như thật của Đức Phật (The Buddhda’s teachings as it is) (1981).
  • Kinh Tập Nipāta (Sutta Nipāta) (2004).
  • Nghiên cứu có hệ thống Kinh Trung Bộ (A systematic study of the Majjhima Nikāya) (2003-2008).
  • Nghiên cứu các hạnh Ba-la-mật (A Study of the Pāramis) (2008).
  • Hợp tuyển lời Phật dạy từ kinh tạng Pāli (In the Buddha’s
  • Words: An anthology of discourses from the Pāli Canon (2006-2008).

LỜI GIỚI THIỆU CỦA ĐỨC ĐẠT-LAI LẠT-MA THỨ 14

ĐỨC ĐẠT-LAI LẠT-MA THỨ 14

Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy ở Ấn Độ. Ngài đưa ra lời khuyên cho những ai quan tâm, mời họ lắng nghe, suy nghĩ và quan sát với óc phê phán những gì Ngài nói. Ngài đã thuyết giảng cho nhiều cá nhân cũng như đoàn thể khác nhau trong hơn bốn mươi năm.

More than two thousand five hundred years have passed since our kind teacher, Buddha Śākyamuni, taught in India. He offered advice to all who wished to heed it, inviting them to listen, reflect, and critically examine what he had to say. He addressed different individuals and groups of people over a period of more than forty years.

Sau khi Đức Phật nhập diệt, việc ghi nhận những lời giảng dạy của Ngài được duy trì theo hệ thống truyền khẩu. Những vị đã được nghe lời giảng dạy thường gặp nhau theo
định kỳ với những vị đồng phạm hạnh khác để đọc tụng lại những gì họ đã nghe và học thuộc lòng. Theo thời gian, những lần đọc tụng thuộc lòng ấy được viết xuống thành
văn tự, đặt nền móng cho tất cả nền văn học Phật giáo sau đó.

After the Buddha’s passing, a record of what he said was maintained as an oral tradition. Those who heard the teachings would periodically meet with others for communal recitations of what they had heard and memorized. In due course, these recitations from memory were written down, laying the basis for all subsequent Buddhist literature.

Kinh tạng Pāli là một trong những văn kiện đầu tiên của các kinh văn được ghi lại bằng chữ viết và là những văn bản hoàn chỉnh duy nhất còn tồn tại nguyên vẹn cho đến ngày nay. Trong kinh tạng Pāli, những kinh văn được biết như là các bộ kinh Nikāya, có giá trị đặc biệt như là một tập hợp có mạch lạc những lời dạy của Đức Phật bằng chính lời nói của Ngài.

The Pāli Canon is one of the earliest of these written records and the only complete early version that has survived intact. Within the Pāli Canon, the texts known as the Nikāyas have the special value of being a single cohesive collection of the Buddha’s teachings in his own words.

Những bài thuyết giảng ấy bao quát nhiều đề tài rộng lớn khác nhau; không những Ngài nói đến vấn đề xuất gia và giải thoát, mà còn giảng về mối quan hệ đúng đắn giữa vợ chồng, việc quản lý gia đình và những phương cách để cai trị đất nước. Những bài kinh ấy giải thích con đường phát triển tu tập, từ bố thí và trì giới đến rèn luyện tâm và đạt được trí tuệ; tất cả hướng đến chứng đắc giác ngộ giải thoát.

These teachings cover a wide range of topics; they deal not only with renunciation and liberation, but also with the proper relations between husbands and wives, the management of the household, and the way countries should be governed. They explain the path of spiritual development—from generosity and ethics, through mind training and the realization of wisdom, all the way up to the attainment of liberation.

Những lời thuyết giảng từ các bộ kinh Nikāya được tuyển chọn trong sách này cung cấp nhiều hiểu biết thật hấp dẫn về phương cách những giáo lý của Đức Phật được bảo tồn, học hỏi và hiểu biết trong thời kỳ đầu tiên của quá trình phát triển Phật giáo.

Các độc giả hiện đại sẽ tìm thấy những giáo lý này có giá trị đặc biệt tái tạo sức sống mới cũng như làm sáng tỏ hiểu biết của họ về nhiều điểm giáo lý cơ bản của Phật giáo. Rõ ràng là thông điệp chính yếu của Đức Phật về lòng từ bi, trách nhiệm đạo đức, an tịnh tâm thức và óc phán đoán đúng đắn vẫn có giá trị trong thời đại này cũng như hơn hai ngàn năm trăm năm về trước.

The teachings from the Nikāyas collected here provide fascinating insights into how the Buddha’s teachings were studied, preserved, and understood in the early days of Buddhism’s development. Modern readers will find them especially valuable for reinvigorating and clarifying their understanding of many fundamental Buddhist doctrines. Clearly the Buddha’s essential message of compassion, ethical responsibility, mental tranquillity, and discernment is as relevant today as it was more than twenty-five hundred years ago.

Mặc dù Phật giáo được truyền bá và định hình tại nhiều phần đất của Châu Á, phát triển thành nhiều truyền thống khác nhau tùy theo không gian và hoàn cảnh, trong quá khứ khoảng cách địa lý và những khác biệt về ngôn ngữ đã làm giới hạn việc trao đổi thông tin.

Although Buddhism spread and took root in many parts of Asia, evolving into diverse traditions according to the place and occasion, distance and differences of language limited exchange between Buddhists in the past.

Một trong những kết quả của tiến bộ hiện đại trong lãnh vực liên lạc và truyền thông mà tôi cảm kích nhất là những cơ hội rộng lớn mở ra cho những người quan tâm đến Phật giáo, giờ đây họ có thể làm quen với toàn bộ đầy đủ giáo lý và phương pháp tu tập Phật giáo.

One of the results of modern improvements in transport and communication that I most appreciate is the vastly expanded opportunities those interested in Buddhism now have to acquaint themselves with the full range of Buddhist teaching and practice. What I find especially encouraging about this book is that it shows so clearly how much fundamentally all schools of Buddhism have in common

Điều tôi cảm thấy đặc biệt khích lệ là cuốn sách này trình bày thật rõ ràng nhiều điểm giống nhau rất cơ bản giữa tất cả các tông phái Phật giáo.

I congratulate Bhikkhu Bodhi for this careful work of compilation and translation. I offer my prayers that readers may find advice here—and the inspiration to put it into practice—that will enable them to develop inner peace, which I believe is essential for the creation of a happier and more peaceful world.

NGUỒN GỐC CÁC BỘ KINH NIKĀYA

Như tôi đã nói trên đây, những bài kinh tôi rút ra để đưa vào hợp tuyển này đều được chọn từ các bộ Nikāya, đó là những bộ tuyển tập kinh tạng Pāli chính gốc. Tưởng cũng cần đưa ra một vài lời giải thích về nguồn gốc và bản chất của các xuất xứ đó.
 
The texts I have drawn upon to fill out my scheme are, as I said above, all selected from the Nikāyas, the main sutta collections of the Pāli Canon. Some words are needed to explain the origin and nature of these sources.
 
Đức Phật đã không ghi lại bất cứ một bài giảng nào của Ngài, và những bài giảng của Ngài cũng không được các đệ tử của Ngài ghi lại bằng chữ viết. Văn hóa Ấn Độ thời Đức Phật sinh sống vẫn chủ yếu là văn hóa trước thời kỳ có chữ viết. (1)
 
The Buddha did not write down any of his teachings, nor were his teachings recorded in writing by his disciples. Indian culture at the time the Buddha lived was still predominantly preliterate.1
 
Đức Phật đi du hành từ thị trấn này sang thị trấn khác trong vùng thung lũng sông Hằng, giáo hóa Tăng Ni, thuyết pháp cho các gia chủ trong vùng; họ tập họp lại để nghe Ngài giảng và trả lời câu hỏi của những người thắc mắc tò mò, và Ngài tham gia vào các cuộc thảo luận với quần chúng đủ mọi thành phần trong xã hội.
 
The Buddha wandered from town to town in the Ganges plain, instructing his monks and nuns, giving sermons to the householders who flocked to hear him speak, answering the questions of curious inquirers, and engaging in discussions with people from all classes of society
 
Các văn bản ghi lại những lời giảng dạy của Ngài mà chúng ta có ngày nay không phải do chính tay Ngài viết hay từ những bài phiên tả do những người nghe Ngài giảng rồi ghi lại, nhưng là từ những hội đồng các vị Trưởng lão Tăng tổ chức kết tập kinh điển sau khi Ngài nhập Niết-bàn (Parinibbāna) nhằm mục đích gìn giữ giáo lý của Ngài.
 
The records of his teachings that we have do not come from his own pen or from transcriptions made by those who heard the teaching from him, but from monastic councils held after his parinibbāna—his passing away into Nibbāna—for the purpose of preserving his teaching.
 
Những lời giảng dạy rút ra từ những công trình do các hội đồng kết tập ấy tái dựng lại không chắc là chính xác từ miệng của Đức Phật nói. Đức Phật chắc hẳn phải thuyết pháp thật tự nhiên và đã phối hợp các chủ đề bằng vô số cách khác nhau để đáp ứng lại nhu cầu đa dạng của những người tìm đến Ngài để được hướng dẫn.
 
It is unlikely that the teachings that derive from these councils reproduce the Buddha’s words verbatim. The Buddha must have spoken spontaneously and elaborated upon his themes in countless ways in response to the varied needs of those who sought his guidance.
 
Bảo tồn bằng phương cách truyền khẩu một khối lượng tài liệu đa dạng và rộng lớn như vậy gần như là một điều không thể làm được.
 
Preserving by oral transmission such a vast and diverse range of material would have bordered on the impossible.
 
Để uốn nắn lời giảng dạy vào một mô thức thích hợp cho việc bảo tồn, các vị Trưởng lão Tăng chịu trách nhiệm về kinh văn đã phải thâu thập tài liệu và ấn hành như thế nào cho thích hợp hơn để đại chúng có thể nghe, giữ gìn, đọc tụng, học thuộc lòng và lặp lại, đó là năm yếu tố chính của văn truyền khẩu. Tiến trình này, có thể là đã bắt đầu từ thời Đức Phật còn tại thế, sẽ đưa đến một mức độ đơn giản hóa và tiêu chuẩn hóa trong chừng mực nào đó về những tài liệu cần được bảo tồn.
 
It is unlikely that the teachings that derive from these councils reproduce the Buddha’s words verbatim. The Buddha must have spoken spontaneously and elaborated upon his themes in countless ways in response to the varied needs of those who sought his guidance. Preserving by oral transmission such a vast and diverse range of material would have bordered on the impossible.
 
Trong thời Đức Phật còn tại thế, các bài thuyết giảng được sắp xếp thành chín loại tùy theo văn thể: sutta (kinh bằng văn xuôi), geyya (kinh vừa văn xuôi vừa văn vần), veyyākaraṇa (ký thuyết / trả lời câu hỏi), gāthā (thi kệ), udāna (lời cảm hứng), itivuttaka (như thị thuyết / lời đáng nhớ), jātaka (chuyện tiền thân Đức Phật), abbhutadhamma (vị tằng hữu pháp / pháp hy hữu), vedalla (phương quảng / vấn đáp).
 
During the Buddha’s life, the discourses were classified into nine categories according to literary genre: sutta (prose discourses), geyya (mixed prose and verse), veyyākaraṇa (answers to questions), gāthā (verse), udāna (inspired utterances), itivuttaka (memorable sayings), jātaka (stories of past births), abbhutadhamma (marvelous qualities), and vedalla (catechism).
 
(2) Vào một vài thời điểm sau khi Đức Phật nhập diệt, kế hoạch phân loại cũ này được thay thế bằng một hệ thống mới sắp xếp các bài kinh thành những tuyển tập lớn hơn gọi là Nikāya theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy, hay tạng Kinh A-hàm (Āgama) theo trường phái Phật giáo Bắc Tông Ấn Độ.
 
At some point after his passing, this older system of classification was superceded by a new scheme that ordered the texts into larger collections called Nikāyas in the Theravāda Buddhist tradition Āgamas in the North Indian Buddhist schools
 
(3) Thời điểm nào bộ kinh Nikāya (A-hàm) trở nên phổ biến thì không thể biết một cách chính xác, nhưng một khi Bộ Kinh này xuất hiện, nó hầu như hoàn toàn thay thế hệ thống phân loại cũ.
 
Exactly when the NikāyaĀgama scheme became ascendant is not known with certainty, but once it appeared it almost completely replaced the older system.
 
Mời bạn đọc tiếp nhé – còn nữa!

Có thể bạn quan tâm:

(function($) { $(document).ready(function() { $('header .ux-search-submit').click(function() { console.log('Moew'); $('header form.search_google').submit(); }); }); })(jQuery);