Tài liệu ôn thi Ngân hàng Nhà Nước 2017-Chức năng của ngân hàng thương mại. Bài viết đầy đủ và mới cập nhập nằm trong phần tài liệu mới gửi tới các bạn.
Nội dung chính:
Cho vay tín dụng
Ngân hàng thương mại cung cấp các dịch vụ trọng yếu với tư cách là nhà trung gian tài chính. Họ sẽ nhận tiền gửi của khách hàng có nhu cầu tìm kiếm những cơ hội đầu tư an toàn và bảo đảm, sau đó sẽ cho vay tín dụng với lãi suất cao hơn. Quy trình này tạo ra một phương cách kích thích dòng tiền mặt hiệu quả.
Cung cấp các khoản vay dành cho khách hàng doanh nghiệp và cá nhân
Cung cấp các khoản vay thương mại là chức năng quan trọng nhất của ngành ngân hàng. Các khoản vay thường được sử dụng cho mục đích tăng trưởng doanh nghiệp, hỗ trợ nhu cầu tiền mặt theo từng thời vụ cũng như nâng cấp nhà máy hay thiết bị. Phần lớn lợi nhuận của ngân hàng đến từ các khoản thu trừ đi chi phí hoạt động và các khoản cho vay bị thất thoát. Các quy định của ngân hàng giám sát chặt chẽ mô hình cho vay và các điều khoản về những khoản cho vay bị thất thoát.
Xây dựng niềm tin
Ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ tư vấn cho các nhà đầu tư. Các chuyên gia ngân hàng sẽ hướng dẫn nhà đầu tư tìm đến với quỹ tương hỗ hoặc những khoản đầu tư trực tiếp. Các chuyên gia ngân hàng cũng có thể đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi và hàng hóa kỳ hạn. Ngân hàng có thể giữ tất cả chứng khoán đầu tư với tư cách là người trông coi cũng như cung cấp gói tiền gửi an toàn, cung cấp thư tín dụng cho những cơ hội đầu tư và hoạt động với tư cách là người được ủy quyền cho các chúc thư và các quỹ đầu tư.
Xây dựng dạnh mục đầu tư
Ngân hàng chia danh mục cho vay của họ thành nhiều mảng khác nhau như cho vay thương mại, cho vay cá nhân,… Các ngân hàng không dùng tài khoản của mình để mua chứng khoán. Hiếm có ngân hàng nào sở hữu trái phiếu của công ty giao dịch công khai trên thị trường, họ thường sở hữu các khoản nợ của những công ty tư nhân. Trên lý thuyết, danh mục đầu tư được chia thành hai phần: danh mục đầu tư để bán và danh mục đầu tư để đầu tư. Danh mục đầu tư để bán sở hữu trái phiếu kho bạc với mục tiêu đạt được lợi nhuận ngắn hạn. Danh mục đầu tư để đầu tư sở hữu chứng khoán với mục tiêu tăng thu nhập và tăng vốn dài hạn.
Giao dịch
Ngân hàng thương mại được phép hoạt động như các nhà hoạch định thị trường cho trái phiếu đô thị, trái phiếu công ty,… Những hoạt động này khác biệt hoàn toàn so với hoạt động xây dựng danh mục đầu tư vì nó hoạt động cho vị thế giao dịch của ngân hàng hơn là cho khách hàng. Các hoạt động hoạch định thị trường cho phép ngân hàng cung cấp dịch vụ tư vấn, hướng dẫn kỹ thuật cho các nhà phát hành. Nó cho phép các ngân hàng tham gia bảo lãnh phát hành chứng khoán và bán chúng cho các tổ chức và cá nhân.
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, toàn hệ thống ngân hàng ở Việt Nam đã được tổ chức lại từ hệ thống ngân hàng 1 cấp trở thành hệ thống ngân hàng 2 cấp: Cấp 1 bao gồm ngân hàng Trung Ương và các chi nhánh ngân hàng Nhà nước ở 61 tỉnh, thành phố cấp hai bao gồm hệ thống các ngân hàng Thương mại thuộc nhiều thành phần kinh tế. Trong đó NHTM là ngân hàng của các ngân hàng. Nó không có mục đích mưu tìm danh lợi. Nó là trung tâm tác động toàn bộ hoạt động tín dụng, ký thác, tiết kiệm của các ngân hàng trung gian và các định chế tài chính. Bên cạnh đó, NHTM lại là ngân hàng thực hiện nhiều loại nghiệp vụ ngân hàng hơn hết trong số ngân hàng trung gian. Ngày nay, người ta không thể hình dung nổi một nền kinh tế thị trường mà vắng bón các tổ chức tài chính trung gian – có nghĩa là các tổ chức làm chức năng nhỏ chiếc “cầu nối” giữa người cho vay và người đi vay. Trong thực tế, các tổ chức tài chính trung gian được hình thành ở nhiều dạng, nhưng nổi bật trong số đó, hệ thống ngân hàng thương mại chiếm vị trí quan trọng nhất cả về quy mô tài sản và về thành phần các nghiệp vụ. Đồng thời, nó có mối quan hệ đặc biệt khăng khít và gắn bó với ngân hàng Trung ương. Chính vì thấu hiểu được vấn đề này nên em đã chọn đề tài: “Chức năng của ngân hàng Thương mại – mối quan hệ giữa ngân hàng Thương mại với Ngân hàng trung ương”. Do kiến thức còn hạn chế, khả năng hiểu biết thực tế chưa sâu nên chắc chắc bài viết còn nhiều thiếu sót. Vì vậy em rất mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô Hoàng Thị Ngọc Thủy đã giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành bài tiểu luận này.
B -NỘI DUNG I. CHỨC NĂNG CỦA NHTM. NHTM
là ngân hàng thực hiện nhiều loại nghiệp vụ ngân hàng hơn hết trong số các ngân hàng trung gian. Chức năng của nó thể hiện ở những mặt sau:
1. Cơ chế thanh toán. Đây là một chức năng quan trọng của NHTM thông qua việc sử dụng séc và tín dụng làm hoạt động của mình. Tín dụng là nghiệp vụ phức tạp và gặp nhiều rủi ro nhất. Nó có quan hệ với tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Từ lĩnh vực tiêu dùng cá nhân đến sản xuất kinh doanh và một phần tham gia vào đầu tư phát triển. Trong chức năng làm trung gian tín dụng của ngân hàng, việc đảm bảo tiền vay có ý nghĩa không kém phần quan trọng. Điều này xét đến cùng là đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng. Mặt khác, điều này cũng cần thiết cho việc bảo đảm bảo quản tài sản. Bên cạnh đó, séc cũng là một hình thức thanh toán hiện nay rất phổ biến tại các ngân hàng trên thế giới và chiếm một tỷ lệ ngày càng cao trong khối lượng điều động tài nguyên ký thác tại ngân hàng. Về mặt kinh tế, sẽ có 3 công dụng: Là một công cụ rút tiền, là một công cụ chi trả là một công cụ thanh toán bù trù. Hiện nay, và sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiều phương tiện máy móc hiện đại đã ra đời, ngày càng hỗ trợ đắc lực cho chức năng thanh toán của NHTM.
2. Huy động và tiết kiệm. Một trong những biện pháp thu hút khách hàng đến giao dịch tại các NHTM là hoạt động huy động và tiết kiệm vốn. Vốn được huy động từ nhiều nguồn khác nhau. Có thể là vốn tự tạo của NHTM, có thể là vốn đi vay, có thể là vốn tiền gửi của khách hàng. Số tiền nhàn rỗi ấy được ngân hàng Thương mại sử dụng vào các mục đích khác nhau nhưng mục đích chung là tạo ra lơị nhuận. Đồng thời NHTM cũng bảo đảm lãi suất ở mức độ an toàn nhất cho khách hàng.
3. Mở rộng và cho vay. Khi bước vào hoạt động, hầu hết các NHTM đều có chủ trương đẩy mạnh hoạt động mở rộng và cho vay. Càng hoạt động dưới nhiều hình thức, nhiều lĩnh vực, NHTM càng có khả năng thu hút càng nhiều khách hàng đến gửi tiền, vay tiền. Những lúc nhu cầu về vốn lưu động lớn hơn vốn lưu động tự có, doanh nghiệp phải vay ngân hàng để bù đắp cho đủ nhu cầu. Những doanh nghiệp có nhiều hàng tồn kho hoặc bị khách mua hàng chiếm dụng vốn thì phải vay vốn ngân hàng nhiều hơn. Nhờ có hoạt động cho vay của NHTM mà các doanh nghiệp mới đủ khả năng hoạt động, cũng như nhờ hoạt động cho vay của NHTM mà nhiều hộ gia đình hay nhiều cá nhân mới có thể đủ điều kiện để phát triển sản xuất.
4. Chức năng tạo tiền. Chức năng này được thực hiện thông qua hoạt động cho vay về đầu tư của các NHTM trong mối quan hệ với NHTM. Tiền cho các doanh nghiệp hoặc các đơn vị sản xuất vay, hay tiền sử dụng vào mục đích đầu tư sẽ được quay vòng để tạo ra lợi nhuận. Nếu hệ thống NHTM hoạt động một cách có hiệu quả sẽ kiềm chế được lạm phát, ổn định giá cả, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng một cách lành mạnh.
5. Tạo điều kiện cho hoạt động ngoại thương: Trong nền kinh tế thị trường và thời mở cửa như hiện nay, việc thúc đẩy sự phát triển của hoạt động ngoại thương là điều hết sức cần thiết. NHTM có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào các ngành sản xuất trong nước cũng như giúp các doanh nghiệp trong nước vay vốn hoặc liên kết làm ăn với các doanh nghiệp ở nước ngoài. Điều này có thể làm giảm bớt chi phí, giúp các doanh nghiệp trong nước nắm bắt kịp thời các thành tựu kinh tế kỹ thuật cũng như góp phần làm tăng lợi nhuận trong kinh doanh.
6. Dịch vụ uỷ thác. Chức năng này được ra đời và phát triển khi thu nhập của các cá nhân, các tổ chức kinh tế tăng cao. NHTM lúc này có nhu cầu bảo quản tài sản có giá trị ở mức độ an toàn nhất.
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VỚI NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG.
1. Quyền lực và sự giúp đỡ của NHTƯ đối với NHTM. a. Quyền lực của NHTM đối với NHTM Hoạt động của ngân hàng thương mại bao gồm 3 lĩnh vực nghiệp vụ: Nghiệp vụ nợ (huy động vốn) Nghiệp vụ có (cho vay) Nghiệp vụ môi giới trung gian (dịch vụ thanh toán, đại lý, tư vấn..) Theo các pháp lệnh về ngân hàng của Việt Nam, ngân hàng thương mại làm đủ các nghiệp vụ theo một nguyên tắc gọi là “Ngân hàng tổng hợp” Chính vì những vai trò quan trọng của ngân hàng thương mại nên ngân hàng trung ương các nước đều được luật pháp cho phép có nhiều thẩm quyền đối với ngân hàng thương mại, nhằm mục đích thực thi chính sách tiền tệ, giữ ứng hệ thống ngân hàng lành mạnh, bảo vệ quyền lợi của các thành hần kinh tế, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Mối quan hệ cộng sinh, hợp tác thúc đẩy này là không thể phủ nhận. Nó cho phép ngân hàng trung ương có những quyền hạn nhất định đối với ngân hàng thương mại, Và các quyền hạn đó được thể hiện ở các khía cạnh sau: Quyền bắt buộc các ngân hàng thương mại phải ký gửi tại ngân hàng trung ương một phần của tổng số tiền mà họ nhận được từ mọi giới theo một tỷ lệ nhất định. Phần bắt buộc đó gọi là dự trữ bắt buộc. Và ngân hàng Trung ương sẽ ấn định tỷ lệ đó khi tăng, khi giảm tuỳ theo tình hình thực tế. Ngân hàng Trung ương được giao quyền xét đơn xin thành lập các ngana hàng, chế tài các vụ vi phạm luật lệ ngân hàng. Ngân hàng trung ương có nhiệm vụ kiểm soát, thanh tra các ngân hàng trung gian, giằm giúp cho hệ thống ngân hàng hoạt động trên căn bản thanh khiết, trong sạch và lành mạnh, từ đó bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và quyền lợi chung của xã hội và nền kinh tế. Ngân hàng Trung Ương ấn định các lãi suất, lệ phí, hoa hồng áp dụng cho các ngân hàng trung gian, quy định, những thể lệ điều hành các nghiệp vụ.. b. Sự giúp đỡ của ngân hàng Trung ương đối với NHTM. Như đã nói ở phần đầu, ngân hàng trung ương là hệ thống nằm ở cấp 1. Nó vừa là cơ quan quản lý tiền tệ, tín dụng của chính phủ, vừa là ngân hàng của các ngân hàng và tổ chứ tín dụng. Chính vì vậy mà không chỉ có mối quan hệ trên quyền hạn, ngân hàng trung ương còn có nghĩa vụ giúp đỡ các ngân hàng thương mại, sử dụng các quyền hạn của mình để tạo điều kiện giúp đỡ, thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng thương mại sao cho NHTM hoạt động một cách có hiệu quả nhất. Trước hết, ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian dưới nhiều hình thức như cho vay, mua bán, chiết khấu, tái chiết khấu đối với giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại.. Cung cấp những tiện nghi ngân hàng cho các ngân hàng trung gian Giúp các ngân hàng trung gian trong việc thanh toán những món nợ với nhau mà không phải di chuyển tiền bạc bằng cách thiết lập phòng giao bán tại trụ sở của mình. Ngân hàng trung ương còn thành lập trung tâm rủi ro ngân hàng. Trong đó có trung tâm séc không tiền bảo chứng. Trong quan hệ với NHTM, ngoài những thủ tục mang tính chất pháp lý, ngân hàng thương mại phải mở tài khoản tại NHTƯ và phải có một khoản tiền gửi tại NHTM để đảm bảo an toàn và thuận lợi cho hoạt động của mình.
2. Nội dung kinh tế và kỹ thuật nghiệp vụ về mối quan hệ giữa NHTW và NHTM. Trong nền kinh tế thị trường, chính sách tiền tệ xuất phát từ ngân hàng trung ương. Nó là trung tâm tác động toàn bộ hoạt động tín dụng, ký thác, tiết kiệm của các ngân hàng trung gian và các định chế tài chính. Về mục tiêu tiền tệ: Điều hoà khối tiền tệ: điều hoà khối tiền tệ ngày nay có nghĩa là điều chỉnh việc tạo tiền ra sử dụng tiền trong hệ thống ngân hàng 2 cấp. Do việc phân chia hệ thống ngân hàng thành 2 cấp nên do đó có sự phân chia 2 loại tiền: tiền ngân hàng trung ương và tiền ngân hàng. Tiền trung ương là tiền do NHTW độc quyền phát hành, tiền ngân hàng ( tiền tín dụng) là tiền do NHTM tạo ra thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng thương mại không thể tạo ra tiền tín dụng từ hư không mà phải dựa vào tiền trung ương. Một đồng tiền ngân hàng trung ương mà NHTM huy động được tạo khả năng cho NHTM cung ứng cho nền kinh tế số tiền tín dụng gấp nhiều lần, ngược lại mức cung tiền tín dụng của NHTM cũng giảm gấp nhiều lần khi tiền trung ương trong tay họ giảm đi một. Chính vì khả năng tạo ra tiền tín dụng của các NHTM trong việc điều hoà phối tiền tệ, ngân hàng trung ương thường kiểm soát khối dự trữ của NHTM và theo dõi tỷ số giữa các dự trữ của ngân hàng này với tổng số tiền gửi. Như vậy, thông qua việc cung ứng tiền trung ương và các phương tiện trực tiếp hoặc gián tiếp, NHTW hoàn toàn làm chủ khả năng điều hoà khối tiền tệ, cung ứng cho nền kinh tế và đó là lẽ sống của NHTW.
III. NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ VIỆC GIÚP ĐỠ MỞ RỘNG QUY MÔ THỰC TẾ CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh nước ta tuy có mở nhiều chi nhánh nhưng quy mô thực tế còn hạn hẹp, vì tiện nghi ngân hàng còn ngèo nàn về công cụ cũng như về hình thức. Vì vậy dân cư và doanh nghiệp chưa tiếp cận và ứng dụng những tiện nghi đó một cách rộng rãi. Để thu hút và tập hợp được nguồn vốn từ dân cư và từ doanh nghiệp, sau đó chuyển nguồn vốn đó cho các nhà đầu tư, NHTW cần giúp đỡ các ngân hàng thương mại mở rộng quy mô thực tế của hệ thống ngân hàng bằng cách cung ứng những tiện nghi ngân hàng cho mọi người có thể tiếp canạ và sử dụng tiện nghi đó của ngân hàng. Đối với dân cư, những tiện nghi mà NHTM cung ứng hiện nay gồm có tài khoản tiền gửi không kỳ hạn và tài khoản tiền gửi có kỳ hạn. Với tư cách là một trung gian tài chính, NHTM là một doanh nghiệp mà người quản lý của nó đều nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Ngân hàng kiếm lợi nhuận bằng cách cho vay và đi vay. Nếu không có khâu trung gian này thì người gửi tiền sẽ không có cả thời gian lẫn trình độ chuyên môn để quyết định cần phải cho vay hoặc đầu tư như thế nào. Đó chính là dịch vụ kinh tế mà ngân hàng cung ứng với tư cách là người trung gian. Đối với doanh nghiệp, ngoài tài hoản gửi sử dụng séc, ngân hàng còn có thể cung ứng tiện nghi khác bằng cách mở tài khoản vãng lai. Đây là tài khoản theo đó ngân hàng cho doanh nghiệp vay một khoản tiền nhất định và doanh nghiệp ngược lại cam kết chuyển những số tiền thu được vào tài khoản này để trừ bớt nợ. Ngoài viẹc cung ứng những tiện nghi ngân hàng cho mọi người cần có thêm những phương tiện chuyển dịch và phân bố rủi ro cho hệ thống ngân hàng thương mại. Một hệ thống ngân hàng hoạt động hoàn hảo còn cung cấp một dịch vụ quan trọng khác. Đó là việc chuyển dịch và phân bố rủi ro. Ngân hàng trung ương có thể góp phần giảm thiếu rủi ro cho các NHTM bằng cách cung ứng những thông tin, cải thiện chất lượng thông tin, tính khả dụng của nó về những người đi vay (nhà doanh nghiệp, công ty…) Một trong phương cách hành động là thiết lập trung tâm rủi ro, là nơi tập trung tất cả thông tin về người đi vay, về ngạch số đi vay, rất bảo đảm, tính sòng phẳng của những người ấy… và cung cấp những thông tin đó cho cơ quan tín dụng.
IV. KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, hệ thống NHTW cũng như hệ thống NHTM đều có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Bằng các chức năng đặc biệt của mình, ngân hàng góp phần điều tiết kinh tế, thực thi chính sách tiền tệ, giữ vững hệ thống ngân hàng hoạt động được lành mạnh đồng thời bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp, công chúng. Đặt trong mối quan hệ tương tác lẫn nhau, ngân hàng thương mại và NHTW đều có vai trò hỗ trợ và giúp đỡ nhau phát triển. NHTW tạo điều kiện thuận lợi, cung cấp phương tiện hoạt động cho NHTM đồng thời NHTM thực hiện chức năng của mình trên phương diện kế tiếp, phát triển hoạt động của NHTW một cách độc lập và đầy hiệu quả. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Tài chính – ĐHQL và KDHN 2. Các nghiệp vụ ngân hàng thương mại – NXB thống kê 3. Thời báo Tài chính – ngân hàng.